LỊCH SỬ VIỆT DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KHOA HỌC

TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT

BÀI MỘT “LỊCH SỬ TRUNG HOA THỜI CỔ ĐẠI LÀ CỦA ĐẠI TỘC VIỆT

     Từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu thường không phân biệt rõ khái niệm Trung Hoa và Trung Quốc, cũng như không phân biệt người Hoa Hạ và người Trung Quốc. Thậm chí còn cho rằng Trung Hoa là Trung Quốc và người Hoa Hạ là người Trung Quốc, từ đó đưa tới nhiều nhận định sai lầm đáng tiếc. Do đó, phục hồi sự thật lịch sử về lịch sử Trung Hoa cổ đại hết sức quan trọng vì sư thật lịch sử được chứng minh bởi kết quả của những công trình nghiên cứu, những kết quả khảo cổ, khảo tiền sử, huyết học, Đại Dương học và nhất là phân tích di truyền DNA đã làm thay đổi nhận định từ trước đến nay về lịch sử tiến hoá cũng như tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam và Trung Quốc.

     Sách sử cổ thường viết là lịch sử Trung Hoa cổ đại gồm Tam Hoàng, ngũ đế và Kinh Thư viết “Phương Bắc” để chỉ nước Hạ của người Hoa Hạ. Cổ thư Trung Hoa cũng chép về một quốc gia cổ là “Hoa Tư” gọi là Hoa Tư cổ quốc hoặc “Hoa Tư Thị” ở khu vực Lam Điền của Tây An ngày nay. Hoa Tư thị là tổ tiên của dân tộc Trung Hoa, chữ Hoa Hạ và Trung Hoa bắt nguồn từ Hoa Tư thị.[1]

     Cổ sử Trung Hoa chép rằng Đế Hoàng bình định các nơi, mở mang bờ cõi, đặt ra y phục, xây dựng nhà cửa cung thất, chế đồ dùng bằng đồng để thay đồ bằng đá, chế xe cộ, ghe thuyền… Nguyên phi là Luy Tổ phát minh ra nghề nuôi tằm và chế ra thứ se để kéo kén ra tơ, nhà thiên văn Duy Thành phát minh ra máy Cái Thiên để quan sát thiên văn khí tượng. Đế Hoàng sai Thương Hiệt chế ra lối chữ tượng hình chân chim để thay cho lối chữ thắt nút (kết thằng) thời Đế Viêm. Đế Hoàng truyền ngôi cho con là Thiếu Hạo rồi Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Chí là ngũ Đế…

    Sách sử cổ ghi rõ Chuyên Húc thuộc dòng họ Cao Tân Cao Dương của tộc Việt còn lưu lại dấu ấn trong sự tích trầu cau. Đế Cốc thay Đế Chuyên Húc lại là cháu của vua Thiếu Hạo, dòng Thần Nông thờ chim là vật biểu, chính là chi Âu Việt (tộc thờ chim) của tộc Việt. Cổ sử Trung Hoa chép rằng “Đế Chí vi nhược, chư hầu tôn Nghiêu, con Đế Cốc lên thay”. Đế Nghiêu lên ngôi lấy tên nước là Đường, đóng đô ở Bình Dương thuộc Hà Đông tỉnh Sơn Tây. Đế Nghiêu họ Đào Đường là con thứ của Đế Cốc, em Đế Chí nhưng vì Đế Chí nhu nhược nên chư hầu tôn Nghiêu lên làm vua lấy hiệu là Đường Nghiêu. Sự thật lịch sử này sẽ làm đảo lộn tất cả những sử sách kinh điển của Hán tộc viết theo lý của kẻ mạnh để “Lộng giả thành chân” khiến mọi người tin theo bao đời nay.

     Đế Nghiêu họ Đào Đường chăm lo việc chính trị, cai trị nhân đức. Đế Nghiêu sai ông Hi và ông Hòa làm lịch để dân biết thời vụ để làm nông. Lịch thời đó gồm có 360 ngày, có tháng nhuần. Trăm họ cày ruộng mà ăn, đào giếng mà uống, an hưởng thái bình. Đế Nghiêu được ông Thuấn giúp việc tuần thú và giao tiếp chư hầu. Con vua Nghiêu là Đan Châu kém cỏi bất tài nên Đế Nghiêu gả 2 con gái cho và truyền ngôi cho Thuấn. Vì thế Đào Đường Thị Đế Nghiêu được hậu thế ca tụng là tài đức song toàn, truyền ngôi cho người hiền mà không truyền ngôi cho con. Họ Đào Đường làm vua từ năm 2.356 đến 2.255 TDL thì truyền ngôi cho Thuấn là người tài đức. Thuấn lên ngôi đóng đô ở Bồ Bản thuộc đạo Hà Đông tỉnh Sơn Tây, đổi tên nước là Ngu (Âu). Đế Thuấn sai ông Vũ đi trị lụt, đặt ra lệ tuần thú, lập nhà học Thượng Tường và Hạ Tường. Theo Mạnh Tử Đế Thuấn là người Đông Di tức chi Lạc bộ Trĩ của tộc Việt. Đế Thuấn được nhiều hiền tài ra giúp như ông Tiết, Cao Dao, ông Ích, ông Tắc…

     Đế Thuấn ở ngôi được 18 năm, con là Thương Quân không theo nổi nghiệp cha nên truyền ngôi cho người hiền là ông Vũ. Vua Vũ là con của ông Cổn, cháu huyền tôn của Hoàng Đế. Đời vua Nghiêu có lụt lớn, vua sai ông Cổn đi trị thủy. Cổn cho đắp đê nhưng nước lại càng dâng lên cao. Thuấn lên ngôi cử ông Vũ lên thay cha đi trị thủy, Vũ dùng cách sơ đạo, khai thông sông ngòi cho nước thuận theo dòng chảy ra biển suốt 13 năm trời mới hết. Vua Vũ muốn truyền ngôi cho người hiền là ông Ích nhưng Thái Tử Khải là người hiền nên khi nhà vua băng, các chư hầu tôn Thái Tử lên thay tức là Đế Khải. Ngôi vua từ chế độ “Truyền hiền bất truyền tử” chuyển sang chế độ Quân chủ “Thế Tập” kể từ đó.

     Sách sử cổ chép rằng vua Đại Vũ lập ra nhà Hạ là hậu duệ của Xuyên Húc nhưng lấy họ Tỷ vì trước khi lên ngôi, Vũ lập nghiệp ở bờ sông Tỷ tỉnh Sơn Tây. Kinh đô nhà Hạ ở An Ấp tỉnh Sơn Tây chỉ cách ngã ba sông Vị hơn 100 km. Vua Hạ là người đầu tiên lập ra chế độ thế tập cha truyền con nối. Việc cai trị nước được tổ chức quy củ, Vua Hạ Vũ chia lãnh thổ ra làm 9 châu dựa trên địa lý thiên nhiên và dựa trên 9 phương ngữ của cư dân Bách Việt bản địa trong đó, đất Kinh Việt gọi là Châu Kinh. Thiên Vũ Cống của Kinh Thư chép cương giới của châu Kinh hướng Đông tới ngọn sông Hoài. Châu Kinh nay thuộc tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Qúy Châu, Quảng Tây là địa bàn cư trú của dân nước Sở thời Chiến Quốc mà sử Trung Quốc gọi là Kinh Man. Châu Dương rộng hơn tới tận biển Đông gồm miền sông Hoài, châu Từ, U Việt mà sử Trung Quốc gọi là Di Việt.

    Công trình nghiên cứu mới đây nhất về Hán ngữ và các phương ngữ Bách Việt ở Trung nguyên đã xác định chỉ có người Hakka (Hẹ) là Lạc bộ Trĩ ở vùng sông Bộc và bán đảo Sơn Đông có phát âm tương tự với Hán Việt và tiếng nôm của Tộc Việt [Ngieu] còn tiếng Quan Thoại và các phương ngữ đọc khác. Sự kiện này chứng tỏ thêm rõ là Đế Nghiêu là người Việt cổ.[2] Thực tế này được thư tịch cổ Trung Quốc xác nhận là khi Lạc bộ Trĩ gồm Bách Bộc mà cổ sử Trung Quốc gọi là rợ Đông Di bị đánh bật khỏi lưu vực sông Bộc và bán đảo Sơn Đông đã thiên cư lên Đông Bắc thành lập nước Cao Câu Ly mà sử Trung Quốc gọi miệt thị là rợ Tam Hàn. Dòng họ Lý là dòng họ chính ở bán đảo Triều Tiên nên được xem như hậu duệ của Hmong Dao. Nhà Lý là hậu duệ của đồng bào Dao thuộc chi tộc Hmong-Mien nên năm 1060, Vua Lý Anh Tông cho xây đền thờ Suy Vưu cũng gọi là Li Vưu, Hoàng Đế của chi tộc Hmong Mien ở phường Bố Cái thành Thăng Long.

    Vấn đề gốc tích vua Vũ lại sáng tỏ khi cổ sử Trung Hoa còn ghi rõ là năm Quý Tỵ (2.198 TDL), vua Đại Vũ nhà Hạ hội chư hầu ở Cối Kê thuộc U Việt. Năm Quý Mão 2.085 TDL, vua Thiếu Khang nhà Hạ phong cho con thứ là Vô Dư ở đất Việt. Sử sách còn ghi lại là vua Thuấn tuần du phương Nam rồi chết ở núi Thương Ngô. Núi Thương Ngô trước tên là núi Cửu Nghi ở miền Bắc tỉnh Hồ Nam là địa bàn cư trú của Bách Việt. Hai bà vợ đi theo buồn rầu than khóc rồi chết bên bờ sông Tương nên dân gian lập đền thờ hai bà gọi là “Tương Phi”. Sông Tương bắt nguồn từ Long Uyên chảy vào hồ Động Đình và lên tới vùng Ba Thục cũng là đất Bách Việt (Bai-Yue). Dân gian còn lập đền thờ Sương Quân là con gái vua Nghiêu ngay bên hồ Động Đình. 

    Cổ thư Trung Hoa chép lại rằng vua các nước Ngô, Việt đều tự hào là con cháu Hoàng Đế và vua Đại Vũ nhà Hạ. Chính Tư Mã Thiên trong “Sử Ký” cũng chép rằng tổ tiên của Câu Tiễn, vua nước Việt thời Xuân Thu là dòng dõi vua Vũ. Hiện ở núi Cối Kê tỉnh Triết Giang Trung Quốc bây giờ vẫn còn đền thờ vua Vũ, nơi mà ngày xưa vua Vũ đã đến hội chư hầu tại đây. “Sử Ký” cũng chép rằng vua nước Sở nhận rằng là hậu duệ của Hoàng đế Hiên Viên. Hùng Dịch người được triều Chu phong cho ở đất Sở là cháu vua Kinh Man là Chuyên Húc (còn gọi là Xuyên Húc) ông tổ của nhà Hạ.

     Năm 1766 TDL, tộc Thương du mục từ Tây Bắc tràn xuống đánh chiếm lãnh thổ của nhà Hạ sau hơn 432 năm trị vì với 18 đời vua. Thành Thương vua của tộc Thương thành lập triều đại đầu tiên của lịch sử Trung Quốc là một chuyển biến lịch sử chấm dứt thời kỳ Trung Hoa Cổ đại. Hoàng tộc và cư dân nhà Hạ, Bách Bộc chi tộc phải vượt sông Hoàng Hà chạy xuống phương Nam thành lập quốc gia Bộc Việt.

     Theo Từ Hải và các sách sử cổ Trung Quốc thì Thành Thang đánh chiếm tiêu diệt nhà Hạ năm 1766 TDL mở đầu lịch sử Trung Quốc, triều Thương chấm dứt năm 1122 TDL. Kinh đô đầu tiên ở đất Bạc, sang đến đời Bàn Canh phải dời đô về đồi Ân (Ân khư) nên đổi tên triều Thương là Triều Ân. Chính thời kỳ này, giặc Ân vượt sông Hoàng Hà đánh nước Xích Quy của tộc Việt còn ghi dấu trong truyền kỳ lịch sử Phù Đổng Thiên Vương…

     Cuối thế kỷ 20, nhân loại đã hiểu rõ hơn về cấu trúc di truyền của con người, xác định được lộ trình di chuyển từ cái nôi sinh tụ ban đầu ở Đông Phi đi khắp nơi trên thế giới. Nhà khoa học người Mỹ gốc Trung Quốc, Lý Huỳnh (Li Yin) của Trường Ðại học Tổng hợp Texas đã đưa ra kết luận là vào khoảng 200.000 năm trước, người khôn ngoan Homo sapiens từ châu Phi thiên di tới Trung Ðông. Từ Trung Ðông một nhóm rẽ sang phía Đông đi qua Pakistan, Ấn Ðộ rồi men theo bờ biển phía Nam châu Á. Nhóm người này đến Ðông Nam Á vào khoảng 60 đến 70.000 năm trước. Họ định cư ở Đông Nam Á một thời gian khoảng 10.000 năm rồi một bộ phận đi tiếp lên phía Bắc tới định cư ở vùng Thiên Sơn (Altai) phía Bắc Trung Hoa.[3] Theo chúng tôi thì nhóm người định cư ở vùng Thiên Sơn Altai giao hòa chủng tộc với nhóm người Turcs và Mongoloid tiến xuống phương Nam trở thành người Trung Quốc bây giờ.

     Khoa học gia J. Y. Chu đã phân tích cấu trúc di truyền 28 nhóm bộ mẫu di truyền từ các tỉnh khác nhau của Trung Quốc đã đi đến kết luận là tổ tiên của người Ðông Á là khởi nguồn từ vùng Ðông Nam Á đi lên và người Trung Quốc (Chinese) ở phía Bắc Trung Quốc có cấu trúc di truyền hoàn toàn khác với người Trung Quốc ở phía Nam (Hoabinhian=Protoviets). 

     Các công trình nghiên cứu mã Di truyền mitochondrial của các nhà khoa học, các nhà nhân chủng học Hoa Kỳ, Anh Quốc, Âu Châu, Thái Lan, Nam Dương và nhiều nước khác trên thế giới kể cả Trung Quốc đã xác định:

– Tổ tiên của các nhóm dân Đông Á ngày nay có nguồn gốc từ Đông Nam Á và người Trung Quốc (Chinese) ở phía Bắc Trung Quốc có cấu trúc di truyền Haplogroups: A, C, D, G, M8a Y và Z và đặc biệt không có đột biến đặc biệt Á châu khác với người Trung Quốc ở phía Nam (Hoabinhian=Protoviets). 

– Người Việt Nam, người Đông Bắc Á, người Đông Nam Á lục địa,  người Đông Nam Á hải đảo và cả thổ dân châu Mỹ có cùng halogroups A, B, C, D và có yếu tố đột biến di truyền là một đại chủng khác biệt hoàn toàn với người Trung Quốc phía Bắc (North Han Chinese).

     Bên cạnh kết quả thuyết phục về cấu trúc phân tử di truyền DNA, công trình nghiên cứu về “Nạn Biển Tiến” của khoa Đại Dương học đã cho chúng ta hiểu thêm về lộ trình di chuyển của người Hòa Bình (Hoabinhian-Protoviets). Mỗi lần biển tiến thì cư dân Nam Đảo và cư dân Hoabinhian phải di chuyển lên miền cao, sau khi nước biển rút thì họ lại từ miền cao tiến xuống đồng bằng lưu vực các con sông Hoàng Hà, Dương Tử để định cư sinh sống. Chính vì vậy, trong lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt từ người Hòa Bình trở thành người Tiền Việt Hoabinhian => Protoviets => Malaysian => Ancient Vietnamese = Malayoviets => Bách Việt đã định cư trên khắp lãnh thổ gọi là Trung Quốc bây giờ. Người Việt cổ đã thành hình các nền văn hóa Việt bao gồm Văn hóa Đại Văn Khẩu Sơn Đông, Văn hóa Lĩnh Nam, Văn hóa Bán Pha Giả Hồ, Văn hóa Hà Mẫu Độ Giang Nam, Văn hóa Tam Tinh Đôi Ba Thục, Văn hóa Long Sơn Ngưỡng Thiều và Văn hóa Lương Chử…


[1]. Wikipedia tiếng Việt: Thiểm Tây (Shanxi)

[2]. Công trình nghiên cứu của Nguyễn Nguyên về Hán ngữ và các phương ngữ Bách Việt ở Trung nguyên. Nhà nghiên cứu Nguyễn Nguyên dẫn tác phẩm “Người Hmong” của Chu Thái Sơn cho biết Lịch sử Hàn Quốc cũng ghi nhận có một Tổng Thống họ Lý là Lý Thừa Vãn và cũng không phải tình cờ mà sau khi nhà Trần diệt nhà Lý mà Lý Long Tường phải chạy ngược lên Triều Tiên để tỵ nạn vì đó là nơi đồng chủng định cư từ lâu đời. Báo chí VN mới đăng tin con cháu dòng họ Lý  từ Hàn Quốc về nhà thờ Tổ họ Lý ở Nam Định để giỗ Tổ.

[3]. Li Yin: Distribution of halotypes from a chromosome 21 region distinguishes multiple prehistoric human migrations, Pro. Natl. Acad. Sci. USA, Vol.96, pp.3796-3800. 1999.

TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ

TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT

    Nhân loại đã bước vào thiên niên kỷ thứ ba với những tiến bộ vượt bực trong nhiều lĩnh vực, nhất là khoa Di truyền học với “Phân tích chủng loại di truyền DNA” đã giải đáp thỏa đáng rất nhiều vấn nan khúc mắc từ bao đời nay. Đặc biệt, khoa Đại Dương Học và Di Truyền Học đã giúp người Việt Nam chúng ta tìm lại cội nguồn phát tích dân tộc một cách đầy đủ nhất, khoa học nhất và thuyết phục nhất.

    Sự tiến bộ vượt bậc của khoa học với phương pháp định tuổi bởi C14 đã giúp các nhà khảo cổ xác định niên đại của di vật cổ đóng góp cho sự tìm hiểu về nền văn minh của một dân tộc cũng như lịch sử tiến hóa của một chủng tộc. Công trình nghiên cứu của các học giả thời danh như W.G. Solheim, Joseph Needham, Stephen Oppenheimer và đặc biệt là khoa Di Truyền Học và Kỹ Thuật Sinh Học hiện đại đã khám phá được bộ “Genome Mã di truyền người”, từ đó truy căn ra nguồn gốc của một dân tộc, cũng như lộ trình thiên di của nhân loại.

    Theo kết quả của ngành phân tử di truyền thì cách ngày nay khoảng từ 50-70 ngàn năm, người Tiền sử từ châu Phi theo bờ biển Nam Á tới định cư ở lưu vực sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam, Quảng Tây và Quảng Đông.[1] Trải qua một thời gian lâu dài người tiền sử từ châu Phi đã tiến hóa để trở thành người khôn ngoan Homo Sapiens. Điều kiện thổ nhưỡng nơi sinh tụ mới cùng với thời gian tiến hóa lâu dài hàng chục ngàn năm, màu da và hình thái của họ dần biến đổi từ người Tiền sử => người đứng thẳng homo erectus => Homo habilis => Homo sapiens sapiens cuối cùng trở thành người Hoabinhoid mà chúng tôi gọi là người Tiền Việt (Protoviets).

    Những người khôn ngoan từ Châu Phi tới định cư ở môi trường mới, họ bắt đầu thuần hóa các cây quả và thú vật, kết hợp đời sống đánh cá với hái lượm trong rừng, trồng các loại cây như cây đậu ở gần nơi cư trú trong hang động. Giới khảo cổ đã tìm được bộ xương người Hòa Bình Hoabinhoid có niên đại khảo cổ 68.000 năm ở Lưu Giang Quảng Tây.

    Mỗi lần biển tiến người Hòa Bình=Tiền Việt phải di cư lên miền cao tới tận cao nguyên Malaya rồi khi nước biển rút dần thì người tiền Việt lại di chuyển xuống định cư ở vùng đồng bằng lưu vực các con sông lớn. Những người Việt cổ này thành lập các nền văn hóa Hòa Bình, Sơn Đông, Hà Mẫu Độ, Lĩnh Nam, Bán Pha Giả Hồ, Lão Ngư Pha, Bắc Sơn Giang Nam, Lương Chử…  của các quốc gia Bách Việt Malayoviets (Bai Yue) trên khắp lãnh thổ Trung Quốc.[2]

    Ngày nay, nền văn minh Hòa Bình được xem là cổ nhất của nhân loại và cư dân Hòa Bình Hoabinhoid tức người Tiền Việt => Người Việt cổ (Protoviets=>Ancient Vietnamese). Khoa Cổ nhân học nghiên cứu gần 100 sọ cổ đã tìm thấy từ trước đến nay ở Việt Nam chứng minh người cổ đã sinh sống ở lưu vực sông Hồng từ rất lâu. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều dụng cụ bằng đá đẽo thô sơ để cắt, nạo, chặt, dùi ở núi Đọ Thanh Hoá cùng với xương và răng người cổ thuộc thời kỳ đồ đá cũ ở Yên Bái, Ninh Bình, Quảng Bình. Sang thời đại đá mới, cư dân đã biết canh tác và chăn nuôi gia súc và cư trú trong những ngôi nhà bằng tre, gỗ chứ không còn ở trong hang đá nữa.[3]

    Kết quả của khoa Tiền sử học nghiên cứu chỉ số sọ của người cổ đến khoa Nhân chủng học phân tử của Di truyền học cùng với công trình nghiên cứu văn hóa khảo cổ xác định nơi thuần hóa lúa nước đầu tiên ở lưu vực sông Hồng, sông Việt (Việt Giang), sông Dương Tử của nền văn hóa Hòa Bình. Đặc biệt, công trình nghiên cứu nạn biển tiến của khoa Đại Dương học cũng như thuyết Greenberg về tiếng vọng của ngôn ngữ nguyên thủy đã cho chúng ta thấy rõ lộ trình thiên cư của người cổ Đông Nam Á (Protoviets) chính là tiến trình lịch sử của Đại tộc Bách Việt như sau:

LỘ TRÌNH THIÊN CƯ                                                                                             CỦA NGƯỜI TIỀN VIỆT (HOABINHIAN  PROTOVIETS)

     Người Tiền sử từ Phi Châu đến định cư ở Hòa Bình vùng Đông Nam Á trải qua một thời gian tiến hóa trở thành người khôn ngoan Homo Sapiens sapiens rồi trở thành người Hòa Bình mà chúng tôi gọi là người Tiền Việt. Những người Tiền Việt khởi nguyên từ vùng Đông Nam Á, giữa lưu vực 3 con sông là sông Dương Tử, sông Hồng và sông Cửu Long nhưng tập trung chính ở vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã và sông Việt ở Quảng Tây,[4]đã thành hình nền văn hóa Hòa Bình cho đến ngày nay được xem là cổ nhất của nhân loại. Kết quả Di truyền học đã xác định lộ trình thiên cư của Halogroup O-M175 tập trung nhiều nhất ở vùng Bắc Thái Lan, Bắc Việt Nam và phía Nam sông Dương Tử.

    Theo khoa Đại dương học thì trong lịch sử nhân loại đã xảy ra 20 lần biển tiến, mỗi lần nước biển dâng lên thì cư dân Hòa Bình phải tiến lên vùng cao nguyên Malaya và cao nguyên Thái Sơn. Khi nước biển rút thì những người Việt cổ lại di chuyển xuống vùng đồng bằng lưu vực các con sông lớn Dương Tử, Hoàng Hà, Cửu Long và sông Hồng để thành hình các nền văn hóa cổ đại.

    Lịch sử cứ tái diễn như vậy mỗi lần biển tiến nên theo dấu khoa Văn hóa khảo cổ, cho đến ngày nay chúng ta ghi nhận nền văn hóa Hòa Bình, nền văn hóa Long Sơn ở bán đảo Sơn Đông, nền văn hóa Bắc Sơn Giang Nam, nền văn hóa SaKai ở Thái Lan, nền văn hóa Bán Pha Giả Hồ, nền văn hóa Hà Mẫu Độ, nền văn hóa Lão Ngưu Pha, nền văn hóa Đại Văn Khẩu, nền văn hóa Long Sơn-Ngưỡng Thiều, nền văn hóa Lương Chử, nền văn hóa Tam Tinh Đôi Ba Thục, nền văn hóa Óc Eo, nền văn hóa Phùng Nguyên, nền văn hóa Nguyên Mưu Vân Nam, nền văn hóa Đông Sơn và nền văn hóa Sa Huỳnh …

    Chính những kết quả của các công trình khảo cổ cùng với kết quả của những công trình khoa học về di truyền và đặc biệt, khoa Đại dương học với nạn biển tiến đã giải đáp biết bao nghi vấn tự ngàn xưa. Thật vậy, trước khi chúng ta biết về nạn biển tiến thì tri thức nhân loại còn hạn chế với những hiểu biết mù mờ về trái đất nơi chúng ta đang sinh sống. Bây giờ, chúng ta mới hiểu rõ tại sao trong kho tàng cổ tích dân gian của chúng ta có truyện Sơn Tinh Thủy Tinh và nhân loại mới hiểu rõ về sự tích có thật của nạn Đại Hồng Thủy trong Thánh Kinh. Việc tìm thấy Kim Tự Tháp Yonaguni trên thềm lục địa Nanhailand và thềm lục địa Sundaland chìm dưới lòng đại dương cũng đã giải đáp phần nào về huyền tích lục địa Atlantic biến mất của thời cổ đại xa xưa.

    Trước khi xảy ra các đợt biển tiến, mực nước biển thấp nên Đông Nam Á lục địa lúc đó còn nối liền với Đông Nam Á hải đảo, đồng bằng châu thổ sông Hồng trải dài tới tận phía Đông đảo Hải Nam và miền Nam Việt Nam hiện nay được gọi là Nanhailand và Cam Bốt còn nối liền với Borneo, Sumatra, Java, Borneo, Bali và vịnh Thái Lan còn là đồng bằng mênh mông gọi là Sundaland. Trong thời kỳ băng hà Pleistocene cách đây từ 20.000 đến 18.000 năm, thềm Sunda còn ở trên mặt nước biển, họ thường xuyên liên lạc với cư dân khác ở Đông Nam Á hải đảọ để sinh tồn tiến hóa.

    Lần biển tiến gầy đây, cách ngày nay khoảng 14 ngàn năm mực nước biển dần dần dâng lên cao khoảng 80m suốt 300 năm đã nhận chìm gần hết thềm lục địa Sundaland. Kế tiếp là nạn biển tiến cách nay 11.500 năm và lần biển tiến sau cùng cách ngày nay khoảng 8.000 năm lại xảy ra hiện tượng biển tiến, mực nước biển dâng lên tới đỉnh Việt Trì, tràn ngập vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Cửu Long khiến cư dân Hoabinhian tức Proto-Viets (Tiền Việt) ở lục địa Nanhailand lưu vực sông Hồng và Sundaland lưu vực sông Cửu Long một lần nữa phải rời bỏ địa bàn cư trú đi lên vùng cao.

    Khoa Đại Dương học và Khảo Cổ học đã chứng minh rằng người cổ Hoà Bình Hoabinhian do nạn biển tiến gần đây nhất cách ngày nay khoảng 8.000 năm đã tiến lên vùng núi cao Hòa Bình, Bắc Sơn và ngược lên hướng Tây Bắc và Đông Bắc vùng Ngũ Lĩnh. Khi mực nước biển dần dần dâng lên cao, cư dân khắp các nơi lần lượt dồn về vùng cao nên đã hình thành nền văn hóa Hòa Bình, một nền văn hóa cổ đại tinh hoa của nhân loại.[5]

    Mực nước dâng cao dần khiến cư dân Proto-Viets (Hoabinhian) ở lưu vực 2 con sông lớn là sông Hồng và sông Cửu Long phải thiên cư mang theo 25 đặc trưng của văn hoá Hoà Bình đi lên hướng Tây Bắc, miền cao Vân Nam Quý Châu rồi tới cao nguyên Malaya giữa 2 dãy núi Hi Mã Lạp sơn và Côn Luân. Khoa Khảo tiền sử cũng cho biết một nhánh khác tiến theo hướng Đông Bắc lên định cư ở Phúc Kiến, Triết Giang tiến lên cao nguyên Thái Sơn ở bán đảo Sơn Đông Trung Quốc bây giờ. 


[1]. Stephen Oppeinheimer cho rằng người Tiền Sử định cư ở Đông Nam Á cách đây 85 ngàn năm.

[2] Trước đây, các nhà nhân chủng gọi là nguyên Mongoloid (Proto-Mongoloid) không được chính xác.

[3] Sách sử cổ Trung Quốc chép rằng mãi tới đời Chu, vua Chu còn sống trong hang trong khi người Việt cổ đã biết làm nhà để cư trú. Điều này chứng tỏ rằng người Việt cổ đã văn minh hơn người Trung Quốc hàng ngàn năm.

[4] Tên cũ của sông là Việt Giang sau Trung Quốc đổi tên là Tây Giang gồm 2 nhánh Tả Giang và Hữu Giang nhằm xóa mờ dấu tích Việt cổ.

[5] Năm 1923, Học giả Madeleine Colani đã tìm thấy 2 chữ sĩ và thượng của nền văn hóa Hòa Bình có niên đại cách ngày nay 8 ngàn năm.

You may also like...