CỘI NGUỒN DÂN TỘC và ĐẠO LÀM NGƯỜI VIỆT NAM

Kính thưa quý vị,

Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn quý vị đã bớt chút thì giờ quý báu tới tham dự buổi Ra Mắt tác phẩm Việt Đạo ngày hôm nay. Thưa quý vị, Sau thời gian 20 năm tù đày trong trại tù Cộng sản mà anh em tù nhân chúng tôi gọi là nới Tận cùng của địa ngục có thật trên trần gian. Tôi nguyện dành hết thời gian còn lại của cuộc đời để tìm về nguồn gốc dân tộc và cội nguồn văn hóa Việt Nam. Với những kết quả mới nhất thuyết phục nhất của khoa học khi về cội nguồn dân tộc, tôi giật mình vì tất cả những gì chúng ta biết trước đây về nguồn gốc dân tộc đều sai lầm. Chính vì vậy, xin quý vị, chúng ta cùng tìm về nguồn cội dân tộc với những kết quả khoa học mới nhất và cùng nhau phổ biến rộng rãi để tất cả người Việt Nam chúng ta hiểu rõ nguồn gốc của dân tộc Việt chúng ta…

1. DÂN TỘC VIỆT KHỞI NGUỒN TỪ HÒA BÌNH BẮC VIỆT Ở PHƯƠNG NAM:

       Sách sử cũ đều chép rằng dân tộc Việt của chúng ta từ hồ Động Đình Nam Trung Quốc di chuyển xuống miền Bắc và Trung Việt Nam. Xin thưa rằng điều này chỉ đúng một phần vì cội nguồn văn hóa của chúng ta phát xuất từ nền văn hóa Hòa Bình cổ nhất của nhân loại và chúng ta là hậu duệ của người Hòa Bình Hoabinhian. Theo dấu người  xưa tìm về ngọn nguồn dân tộc khởi nguyên từ người Hòa Bình sau một thời gian tiến hóa thích ứng với mội trường sinh sống ở lưu vực sông Hồng, sông Việt (Châu giang, Tây Giang) để trở thành người Tiền Việt (Pre-Vietnamese) rồi người Việt cổ (Ancient Vietnamese). Khi mực nước biển dâng cao, khí hậu phương Bắc bớt lạnh thì người Tiền Việt phải di cư lên miền cao Vân Nam rồi tới chân cao nguyên xứ Tạng (Tibetan Plateau). Sau khi nước biển rút thì người tiền Việt từ cao nguyên Tây Tạng (Ancient Vietnamese) lại tiến xuống dọc lưu vực con sông Nguồn mà sau này Hán tộc đổi tên là Hán Thủy xuôi xuống Đông Nam định cư trên vùng đất mà sách cổ “Thượng Thư” chép là Xích Quy Phương, dân gian gọi là Cửa Việt hay Giao Chỉ. Lần biển tiến cuối cùng cách ngày nay 8 ngàn năm nên nhà Trung Hoa học David Keightly đã nhận định là “ Xuất phát từ trung tâm văn hóa Hòa Bình đã di dân lên tới bờ sông Vị ở chân cao nguyên Tây Tạng đã lập ra nền văn minh đồ đá mới ở Trung Quốc”. Tất cả chứng cớ Khảo cổ, Văn hóa Khảo cổ, Khảo tiền sử, Dân tộc và Ngôn ngữ học đối chiếu với nguồn thư tịch cổ đã xác định là trên vùng đất trải dài từ lưu vực sông Hoàng Hà và Dương Tử trở xuống vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo gồm Malaysia, Indonesia, Philippine, quần đảo Polynesia và cả Mỹ châu nữa là địa bàn sinh sống của cư dân Hòa Bình thuộc đại chủng  Hoabinhoid là người Tiền Việt Pre-Vietnamese.

       Như vậy, nguồn gốc dân tộc Việt từ Hòa Bình phương Nam do nạn biển tiến đã thiên cư lên phương Bắc cư trú trên toàn lãnh thổ Trung Quốc bây giờ. Sự kiện lịch sử này đã được hội nghị các nhà Trung Hoa Học kể cả các học giả Trung Quốc, Đài Loan tham dự cuộc hội thảo về nguồn gốc nền văn minh Trung Hoa tại Đại học Berkeley California Hoa Kỳ năm 1978 đã xác nhận là cư dân Di Việt định cư đầu tiên trên toàn lãnh thổ Trung Quốc bây giờ. Hán tộc du mục đến sau xâm chiến nhà Hạ của tộc Việt thành lập triều Thương đầu tiên của lịch sử Trung Quốc năm 1.600 TDL. Sau đó, đại tộc Việt bị đẩy lui dần xuống phương Nam và trụ lại tại phần lãnh thổ Việt Nam bây giờ.

2. LỊCH SỬ TRUNG HOA THỜI CỔ ĐẠI LÀ CỦA ĐẠI TỘC VIỆT:

       Từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu thường không phân biệt rõ khái niệm Trung Hoa và Trung Quốc, cũng như không phân biệt người Hoa Hạ và người Trung Quốc. Thậm chí còn cho rằng Trung Hoa là Trung Quốc và người Hoa Hạ là người Trung Quốc, từ đó đưa tới nhiều nhận định sai lầm đáng tiếc. Do đó, phục hồi sự thật lịch sử về lịch sử Trung Hoa cổ đại hết sức quan trọng vì sư thật lịch sử được chứng minh bởi kết quả của những công trình nghiên cứu, những kết quả khảo cổ, khảo tiền sử, huyết học, Đại Dương học và nhất là phân tích di truyền DNA đã làm thay đổi nhận định từ trước đến nay về lịch sử tiến hoá cũng như tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam và Trung Quốc. Sách sử cổ thường viết là lịch sử Trung Hoa cổ đại hoặc dựa theo Kinh Thư viết “Phương Bắc” để chỉ nước Hạ của người Hoa Hạ. Công trình Khảo cổ tìm thấy những di chỉ của nền văn hóa Lão Ngưu Pha của cư dân Việt ở bờ Nam sông Vị và di chỉ văn hóa Diêm La Thôn của cư dân Lạc (Việt) sống ở bờ Nam sông Lạc vùng Tam Giang Bắc, hợp lưu của các con sông Vị, sông Lạc (bộ Chuy) và sông Hoàng Hà. Cổ thư Trung Hoa cũng chép về một quốc gia cổ là “Hoa Tư” gọi là Hoa Tư cổ quốc hoặc “Hoa Tư Thị” ở khu vực Lam Điền của Tây An ngày nay. Hoa Tư thị là tổ tiên của dân tộc Trung Hoa, chữ Hoa Hạ và Trung Hoa bắt nguồn từ Hoa Tư thị.[1]Theo Tư Mã Thiên thì Đế Hoàng là thủ lĩnh của Hạ Hầu Thị nên lấy tên Hạ để gọi, nước Hạ là tên thường gọi của La Việt có kinh đô là Đại Việt nên còn gọi là Đại Việt.

3. NÚI THÁI SƠN VÀ SÔNG NGUỒN TRONG TÂM THỨC VIỆT:

           Từ vùng chân cao nguyên Tây Tạng Tibetan, người Việt cổ tiến xuống vùng lòng chảo Dạ Lang định cư nơi 4 con sông lớn giáp nhau là sông Min (Mân giang), sông Ya (Dạ Lang), Kong (Mekong Cửu Long) và sông Kạ (Dương Tử) trên bản đồ ngày nay ghi là Bồn địa Tứ Xuyên. Con sông Nguồn phát nguyên từ đây chảy xuống hướng Đông Nam rồi nhập vào sông Dương Tử ở Vũ Hán Hồ Bắc. Sách Thượng Thư gọi vùng này là Xích Quy Phương, còn gọi là Giao Chỉ hay Cửa Việt chính là nơi mà thủ lĩnh Kinh Dương Vương đã lập quốc gia sơ khai và lấy tên đất đặt tên nước là Xích Quy. Đợt thiên cư thứ hai này của người Việt cổ (Ancient Vietnamese = Hundred-Viets) xuống Sơn Tây, Hà Bắc mà truyền thuyết chép chính là dòng Thần Nông phương Bắc, thành lập các triều đại Đế Nghi, Đế Lai, Đế Du Võng. Tuy là cùng chung nguồn cội nhưng thủ lĩnh các thị tộc thường đánh lẫn nhau để tranh quyền lãnh đạo. Cuối cùng, thủ lĩnh họ Hùng (Hữu Hùng Thị) ở Tân Trịnh Hà Nam nơi có ngọn núi Thái Sơn đánh thắng Li Vưu (Suy Vưu, Xi Vưu) thủ lĩnh tộc Miêu và Đế Du Võng dòng Thần Nông phương Bắc thống lĩnh trung nguyên. Đây là cuộc chiến tranh giành ngôi thủ lĩnh liên minh Đại tộc Việt mở đầu cho cuộc phân hóa ly tán đầu tiên của đại tộc Việt khiến một số dòng tộc người Miêu (Hmong-mien, Miao-Yao) phải rút lên vùng núi cao, một số mà sách sử cổ Trung Quốc gọi là Rợ Cao Câu Ly phải chạy lên hướng Bắc thành lập nước Triều Tiên, sang quần đảo Nhật Bản, một số đi đường biển theo gió xuôi Nam xuống Đài Loan, Hải Nam, Bắc Việt Nam (Cổ Việt), một số lạc xuống tận đảo Célèbres…

      4. DÂN TỘC VIỆT HOÀN TOÀN KHÁC BIỆT VỚI HÁN TỘC.

       Trước đây do thiếu kết quả khoa học nên cho rằng Việt tộc từ Hán Tộc mà ra. Ngày nay với những kết quả khoa học đã chứng minh rằng tộc Việt hoàn toàn khác biệt với Hán tộc. Theo khoa Chủng tộc học (Anthropologie physique) thì sọ cách biệt trên 2 chỉ số nghĩa là thuộc 2 chủng khác nhau. Do đó cư dân Hoa Bắc và Hoa Nam là hai chủng tộc khác nhau vì sọ của 2 nhóm cư dân này cách biệt trên 2 chỉ số có nghĩa là thuộc 2 chủng khác nhau. Người Hoa Bắc có chỉ số sọ 76,56 gần gũi với sọ cổ người Cam Túc tức người Hán cổ (76,70) hoàn toàn khác người Trung Quốc ở Hoa Đông và Hoa Nam thuộc chủng tộc Việt. Các nhà khoa học Khảo tiền sử thuộc trường Viễn Đông Bác cổ đã đo chỉ số sọ trung bình của người Việt là 82,13. Dung lượng sọ Việt là 1341,48 và tính cách sọ Việt là sọ tròn trong khi chỉ số sọ của Hán tộc ở miền Bắc Trung Quốc  (Hoa Bắc) là 76,51 và thuộc loại sọ dài có dung lượng sọ là 1440. Chỉ số sọ trung bình của dân ở miền Nam Trung Quốc (Hoa Nam) và dân ở miền Đông Trung Quốc (Hoa Đông) là 81,22 và thuộc loại sọ tròn. Như vậy Tộc Việt và người Trung Quốc ở miền Đông và Nam Trung Quốc gốc Việt Cổ có cùng chỉ số sọ  và hoàn toàn khác biệt với Hán tộc (Cách biệt hơn 5 chỉ số sọ).  Đồng thời kết quả phân tích cấu trúc di truyền mã genome DNA cho thấy Tộc Việt có Haplogroups chính gồm A, B, C, D. và có đặc biệt đột biến di truyền châu Á vì Không có cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII/ tRNA.LYS.  Trong khi Hán tộc Halogroup không có yếu tố B và không có đột biến đặc biệt châu Á. Do đó tộc Việt hoàn toàn khác biệt với Hán tộc.

5. DÂN TỘC VIỆT CÓ LỊCH SỬ LÂU ĐỜI NHẤT THUỘC ĐẠI CHỦNG HOABINHOID

Kết quả của khoa Phân tích Di truyền hoàn toàn phù hợp với thư tịch cổ Trung Hoa, Khoa Khảo cổ học, Nhân chủng học, Khảo tiền sử kể cả truyền thuyết Rồng Tiên về thời kỳ dựng nước của Việt tộc. Chứng cớ khoa học mới nhất có tính thuyết phục nhất, một lần nữa khẳng định tộc Việt và Hán tộc là 2 tộc người khác nhau. Genome mã di truyền DNA của đại tộc Việt và Tầu Hán (Trung Quốc) hoàn toàn khác nhau.

         Năm 1992, Hiệp hội Di truyền Hoa Kỳ đã công bố công trình nghiên cứu về trình tự gen với những kết quả khoa học đã kết luận: “Người Việt Nam có tần số đa dạng nhất, dân số già nhất và dĩ nhiên có lịch sử lâu đời nhất.”.[2]  Các tần số cao của nhóm haplotype xóa D * mtDNA ở Đông Nam Á, các hòn đảo Thái Bình Dương chứng tỏ rằng những người di cư tới vùng đất này là hậu duệ của một cộng đồng người ở Hòa Bình Việt Nam và miền Nam lãnh thổ Trung Quốc bây giờ . mà chúng tôi gọi là đại chủng Hoabinhoid vì phát tích từ Hòa Bình, sau một thời gian thích ứng với môi trường đã trở thành là người Tiền Việt (Previetnamese). Việt Nam là trung tâm của mtDNA từ đó lan toả ra khắp vùng Thái Bình Dương. Hiệp hội Genetics của Hoa Kỳ công bố công trình nghiên cứu về trình tự gen với những dữ liệu khoa học đã kết luận: “Người Việt Nam có tần số đa dạng nhất, dân số già nhất và dĩ nhiên có lịch sử lâu đời nhất.”.[3]

6. TỪ TRIẾT THUYẾT PHƯƠNG ĐÔNG ĐẾN ĐẠO VIỆT

       Các công trình nghiên cứu đã phục hồi sự thật của lịch sử là các nền văn hóa Trung Hoa thời cổ đại và cái gọi là nền văn minh Trung Quốc chính là của Đại tộc Việt. Kết quả của công trình văn hóa khảo cổ chứng minh rằng nền văn hóa Lương Chử là của tộc Việt. Di chỉ văn hóa Lương Chử với sơ đồ Bát quái sớm nhất với phiến ngọc có vòng tròn chia làm 8 phần, ở giữa có hình mặt trời 8 cánh…  Thật vền minh triết Việt khởi nguyên từ thần tổ kép Tiên Rồng, uyên nguyên của triết lý Âm Dương Việt cổ, tinh túy của triết học phương Đông. Âm Dương biểu tượng cho 2 mặt đối lập tương sinh tương khắc nhưng không dẫn đến triệt tiêu, hủy diệt lẫn nhau mà cùng nhau tương hoà theo lý đối lập thống nhất. Trong vũ trụ vạn vật muôn loài đều có 2 mặt đối lập với nhau nhưng vẫn cần thiết có nhau, tương hòa để tồn tại. Nếu thiếu một trong 2 yếu tố căn bản hoặc âm hoặc dương thì sẽ không có muôn loài muôn vật. Thực tế cuộc sống được chiêm nghiệm suốt chiều dài của lịch sử loài người, đó là tuy đối lập nhưng vẫn hài hòa, thống nhất trong đa dạng thì loài người mới tồn tại mãi tới ngày nay. Bất cứ muôn loài muôn vật muốn tồn tại phải “Tương Hòa” đó chính là đạo “Thái Hòa” của nền minh triết Việt Nam. Hòa hợp ngay tự bản chất mỗi vật, hòa hợp ngay chính bản thân mỗi người như thể xác với tâm hồn, tình cảm với lý trí, tâm với tính, hài hòa với thiên nhiên, hài hòa trong ứng xử giao tiếp với tha nhân, duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người, giữa dân tộc này với dân tộc khác để cùng tồn tại chứ không cực đoan, mưu đồ tìm cách tiêu diệt lẫn nhau. Cuộc sống đòi hỏi chúng ta phải cùng tôn trọng nhau, chấp nhận nhau dù có sự khác biệt. Phải chấp nhận thống nhất trong đa dạng, lấy yếu tố con người làm đích điểm để cùng chung sống trong hòa bình. Đó chính là triết thuyết Nhân bản Cộng tồn, lấy con người là chính để cùng chung sống trong hòa bình an lạc của nền minh triết Việt. Nhân loại đang trải qua thời kỳ khủng hoảng, bế tắc của tư tưởng nên hết chiến tranh ý hệ lại quay sang chiến tranh dân tộc và tôn giáo đe dọa sự sống còn của nhân loại. Chỉ có nền minh triết siêu việt nhân bản tâm linh Việt mới đưa nhân loại thoát khỏi tình trạng bế tắc hiện nay để giải quyết vấn đề nhân sinh trước thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại.

ĐẠO VIỆT

       Là cư dân nông nghiệp đời sống thiên về văn hóa với những lễ hội dân gian quanh năm suốt tháng. Người việt cổ có đời sống tâm linh cao độ, từ đạo thờ Trời, thờ Ông bà Tiên Tổ của dòng họ, ông Tổ của nòi giống đến thờ nhân thần, thờ kính các anh hùng dân tộc, đặc biệt các thần nữ. Khởi đi từ quan niệm Đạo Trời, đạo Đất cũng là đạo người, nhất âm nhất dương chi vị đạo, nam nữ cấu tinh-vạn vật hóa sinh để truyền chủng bảo tồn nòi giống dẫn tới ý niệm nhân chủ, xem con người làm chủ cuộc sống nên phải xem con người là căn bản, tôn trọng sự sống nên nhân loại phải cùng chung sống hòa bình với triết thuyết “Nhân bản Cộng Tồn” và nhân sinh quan “Nhân Hòa Trung Đạo” của nền minh triết An Lạc Thái hòa…

      Người Việt cổ là cư dân nông nghiệp, trồng lúa nước nên người thời Hùng Vương đặt niềm tin vào Cha trời Mẹ đất ban phát cho mưa thuận gió hoà, mùa vụ gặt hái đầy đồng vì thế người Việt cổ xưa thờ thần mặt trời với những lễ thức nông nghiệp tế thần mặt trời. Đối với cư dân nông nghiệp buổi ban sơ thì không gì quan trọng hơn thần mặt trời là thần quyết định việc mưa nắng thuận lợi để cây lúa tốt tươi, muôn loài muôn vật sinh sôi nảy nở. Thần mặt trời có một uy lực thiêng liêng trong tín ngưỡng nguyên thủy của cư dân Việt cổ nên ngay chính giữa mặt trống đồng khắc hình mặt trời với những tia sáng tỏa ra xung quanh. Đó chính là tôn giáo nguyên thủy, đạo thờ trời của Việt tộc.  Đạo thờ Trời còn được gìn giữ truyền lưu mãi tới ngày nay trong dân gian nhất là ở miền Nam, hầu như không có nhà nào mà không có một bàn thờ Thiên (ông Trời) ở trước ngõ. Các dân tộc trong cộng đồng Bách Việt (Hundred-Viets) gồm các nước Đông Nam Á cũng thờ thần mặt trời kể cả Nhật cũng thờ Thái Dương Thần Nữ, thổ dân Đài Loan, Indonesia và thổ dân châu Mỹ nữa. Tất cả đều có những nghi thức tế thần mặt trời với vũ nhân vẽ mình và hoá trang hình chim với màu sắc giống hệt nhau. 

ĐẠO THỜ CÚNG TỔ TIÊN

         Một nét son cao đẹp tuyệt vời của văn hoá Việt cổ còn bảo lưu mãi cho tới ngày nay đó là tục thờ nhân thần và thờ cúng ông bà Tiên Tổ, truyền thống đạo lý cao đẹp của người Việt Nam. Trong tâm thức mỗi người Việt thì người thân yêu trong gia đình tuy đã chết nhưng vẫn còn hiện diện nơi người sống với tất cả sự nhớ nhung thương tiếc. Hàng năm đến ngày người thân mất, những người còn sống trong gia đình vẫn làm một bữa cơm cúng mời vong linh người chết trở về sum họp gọi là ngày giỗ.  Ngày giỗ là ngày tất cả con cháu trong gia đình xa gần trở về đoàn tụ, mỗi người mang theo một bó nhang, ít trái cây và con gà gọi là để góp giỗ để người quá cố chứng giám cho lòng thành của họ. Trước bàn thờ khói hương nghi ngút, con cháu quỳ lạy khấn vái vong linh người quá cố, cúng cơm xong rồi hạ lễ, mọi người trong nhà quây quần bên mâm cơm vừa ăn vừa nhắc tới công ơn, đức hạnh, tình cảm người quá cố khi còn sống.  Trong đời sống tâm linh của người Việt thì người đã qua đời vẫn còn sống mãi trong lòng con cháu. Hình ảnh, tình cảm, đức hạnh của người quá cố vẫn còn hiện diện trong đời sống tâm linh của những người còn sống như để phù hộ độ trì cho họ để rồi một mai khi họ chết đi, thì họ lại che chở, phù hộ cho thế hệ con cháu sau này qua cơn hoạn nạn. Chính vì vậy, người Việt đón nhận cái chết như một sự bình thường phải xảy ra không trừ một ai.

         Đối với người Việt, việc thờ cúng Ông bà Tiên tổ là đạo lý làm người, hết sức thiêng liêng cao đẹp trong đời sống tâm linh của người Việt. Từ xa xưa người Việt coi trọng đạo nghĩa nên thường nghĩ tới ngày giỗ của người thân hơn là chú trọng đến ngày sinh nhật của mình. Ngày nay, dù giới trẻ quan tâm nhiều đến ngày sinh nhật nhưng cũng không quên những ngày kỵ giỗ người thân trong gia đình. Đạo thờ cúng ông bà là một “Việt đạo” thể hiện đạo lý làm người của Việt tộc. Linh mục Cadière khi nghiên cứu về văn hóa dân tộc Việt Nam đã phải thốt lên: “Việt Nam là một dân tộc có tinh thần tôn giáo cao độ”. Học giả P. Mus nghiên cứu về Việt Nam cũng thừa nhận rằng: “Dân tộc Việt có một đời sống tâm linh cao, người Việt không làm việc, họ tế tự”. Thật vậy, người ngoại quốc ngạc nhiên khi thấy “Mỗi gia đình Việt Nam là một nhà thờ, nhà nào cũng có bàn thờ gia Tiên ở chính giữa nhà”. Thờ cúng tổ tiên chính là đạo lý làm người, là những gì thiêng liêng cao cả lưu truyền từ đời này sang đời khác. Chính dòng sống tâm linh này đã góp phần bảo tồn dòng giống Việt.  Truyền thống thờ cúng ông bà không còn là một tập tục, một tín ngưỡng đơn thuần mà đã trở thành đạo lý của dân tộc. Đạo thờ cúng ông bà được xem như Tổ Tiên chính giáo của đạo làm người Việt Nam mà Nguyễn Đình Chiểu một sĩ phu yêu nước thế kỷ XIX đã ân cần nhắc nhở: “Trai thời Trung Hiếu làm đầu, Gái thời Tiết Hạnh làm câu sửa mình…Thà đui mà giữ đạo nhà, Còn hơn sáng mắt ông cha không thờ…”. Đạo thờ Ông bà Tiên tổ đứng đầu trong “Tứ Ân” trọng đại, tinh hoa của Phật Giáo mà sau này, nơi Phúc Địa miền Nam đã kết tụ tinh hoa thành “Bửu Sơn Kỳ Hương”, một triết lý nhân sinh thể hiện ngay trong đời sống thường ngày, đó là Ân Tổ Tiên Cha mẹ, Ân Đất Nước, Ân Tam Bảo và Ân Đồng bào nhân loại.

TÔN THỜ QUỐC TỔ QUỐC MẪU

        Nhiều học giả ngoại quốc đã đặc biệt trân trọng truyền thống thờ nhân thần của Việt Nam. Trong khi các dân tộc khác trên thế giới chỉ thờ các thần linh với những uy lực siêu phàm từ một cõi xa xăm nào khác thì ở Việt Nam, những anh hùng dân tộc, những danh nhân văn hoá hoặc bất kỳ ai dù thuộc bất cứ thành phần xã hội nào, nếu lúc còn sống có công với dân địa phương mà khi chết đi hiển linh sẽ được nhân dân địa phương tôn thờ như vị thần làng.  Cội nguồn Việt tộc khởi từ Kinh Dương Vương, Đức Long Nữ, Lạc Long Quân, Âu Cơ được dân gian, mà dân gian gọi một cách thân thương là Bố Rồng Mẹ Tiên, Bố Lạc mẹ Âu được nhân dân cả nước lập đền thờ “Quốc Tổ – Quốc Mẫu” và hàng năm tổ chức trọng thể ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba âm lịch. Ngày giỗ Tổ được dân gian xem như ngày của “Bố Rồng Mẹ Tiên” để đồng bào cả nước tưởng nhớ công ơn của người khai sáng nguồn cội giống dòng và mỗi người cũng nhớ đến Bố mẹ, người đã sinh thành dưỡng dục chúng ta nên người.

       Truyền thống cao đẹp tôn thờ sùng kính, biểu lộ lòng tri ân Đức Quốc Tổ Quốc mẫu, các anh hùng dân tộc cũng như thờ cúng ông bà Tiên Tổ biểu thị lòng hiếu thảo đối với những người sinh thành dưỡng dục, truyền lưu sự sống cho mình đã là sợi dây tình cảm thiêng liêng phối kết con dân Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác.  Truyền thống tôn thờ các anh hùng dân tộc thể hiện lòng tri ân sâu sắc tiền nhân, tri ân những chiến sĩ vô danh đã hy sinh vì đất nước để dân tộc trường tồn sống mãi trong tâm thức Việt. Hình ảnh các anh hùng dân tộc từ biết bao thế hệ trước của ông bà Tiên Tổ sống mãi trong lòng thế hệ cháu con. Thế hệ này sẽ tiếp nối truyền lưu ngọn lửa thiêng của dân tộc sang thế hệ sau, với niềm tin mãnh liệt là anh linh của các anh hùng dân tộc đã hiển linh hoà quyện thành “Hồn thiêng sông núi”, phù trợ cho cháu con bảo vệ bờ cõi giang sơn cẩm tú của dòng giống Lạc Hồng.  Một điểm độc đáo đặc thù cuả ngôn ngữ Việt, dân tộc Việt đó là từ ý niệm Quốc Tổ, người khai sáng ra dòng giống Việt nếu đảo ngược chữ “Quốc Tổ” lại sẽ thành “Tổ Quốc”, diễn tả một ý niệm u linh bàng bạc cuả Hồn thiêng sông núi Việt Nam tự bao đời mà không một dân tộc nào có được. Tóm lại, Đạo Việt chính là đạo lý làm người Việt Nam của chúng ta. Nhân đây, chúng tôi xin nói về lá cờ đỏ sao vàng mà nhà cầm quyền Cộng sản thường rêu rao tuyên truyền là lá cờ Tổ quốc. Xin thư đó là lá cờ “tổ quốc” của Cộng sản phúc Kiến còn lá cờ Tổ Quốc chính là lá cờ của Quốc Gia Việt Nam, của nước nhà Việt Nam chính là lá cờ vàng 3 sọc đỏ thời Đức Quốc Trưởng Bảo Đại.

       Xin chân thành cám ơn quý vị đã lắng nghe và xin trân trọng kính chào quý vị.

Phạm Trần Anh

A map of china with green and red colors

Description automatically generated
A map of asia with different countries/regions

Description automatically generated

Núi Thái Sơn ở Sơn Đông giáp với Hà Nam địa bàn cư trú của Thủ Lĩnh Đế Hoàng (Hữu Hùng Thị) và Sông Nguồn khởi nguyên từ chân cao nguyên Tây Tạng chảy xuống nhập vào sông Dương Tử ở Vũ Hán            tỉnh Hồ Bắc.


[1] Wikipedia tiếng Việt: Thiểm Tây (Shanxi)

[2] Tao Babe WordPress.com.

[3] https://taobabe.wordpress.com