TÁC GIẢ PHẠM TRẦN ANH

PHẠM TRẦN ANH

History of Vietnam should be read by anyone with an interest in Asian or world history. It is well documented and provocatively written by a brilliant Vietnamese scholar. A solid addition to the history of human-kind.

Professor Jerry Livingston Voorhis Ph D

Quốc Việt Phạm Trần Anh, một Phật tử trí thức, nối chí các bậc đàn anh đi trước, đã vận dụng trí tuệ bát nhã để viết bộ NGUỒN GỐC VIỆT TỘC, tìm về cội nguồn sử tích họ Hồng Bàng. Tác giả dẫn chứng bằng những sử liệu chính xác, một công trình nghiên cứu đúng đắn, tìm về nguồn cội dân tộc, phục hoạt nền văn minh cổ đại của dòng giống Bách Việt, hợp sáng với nguyên lý Nhân duyên sinh của Đại thừa Phật giáo. NGUỒN GỐC VIỆT TỘC là một tác phẩm giá trị, tôi xin mời bạn hãy tìm vào nội dung để thưởng thức những cái hay đẹp, những khám phá mới lạ mà từ trước những nhà viết sử chưa ai đề cập tới….

Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Đức Nhuận, Cố Vấn Viện Hóa Đạo GHPGVNTN

“Dù mới đọc lướt qua Nguồn gốc Việt tộc nhưng tôi đã nhận thấy đây là tác phẩm hết sức vĩ đại, một công trình cực kỳ giá trị ”.

Lê Mộng Nguyên, Viện sĩ Hàn Lâm Pháp quốc

“Công trình nghiên cứu công phu của tác giả Phạm Trần Anh về Huyền tích Việt đã góp phần rất lớn vào công việc tìm hiểu nguồn gốc của người dân Việt. Công trình biên soạn của ông đem lại nhiều hãnh diện cho dân tộc Việt Nam, giúp chúng ta có những kiến thức vững chắc hơn về nền văn hiến của chúng ta. Chính nền văn hiến đó đã là nền tảng của văn hoá Trung Hoa sau này. Tác phẩm rất xứng đáng có một chỗ đứng quan trọng trong tủ sách của người Việt Nam, nhất là cho các thế hệ sau này”.

TS Nguyễn Thanh Liêm,Thứ Trưởng Giáo dục VNCH

To A Freedom Fighter PHAM TRAN ANH

Thank you very much for all your sacrifices. You are a tough, a faithful, brave and true patriot and a soldier. It is good to count you as a loyal friend. Never forget, but always remember because of the work and sacrifices of you and all the other patriots, Vietnam will one day be free, democratic, united and independent. Always remember all who sacrificed so much. Thank you especially for all your books. These teach the youth so they can carry on after US.

J.P. Messeiner

Vice Director Frienship Foundation of American-Vietnamese (Frienshipfoundation@msn.com)

“Được giới thiệu nhà nghiên cứu lịch sử và văn hoá dân tộc Việt Nam Phạm Trần Anh và cuốn sách mới nhất của ông là “Sơn Hà Nguy Biến”, thật là một nỗi vui đặc biệt cho tôi. Trước đây tôi được đọc những bài phê bình những cuốn sách “Nguồn Gốc Việt Tộc” và “Huyền Tích Việt” của ông Phạm Trần Anh, người đã tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh ở Việt Nam, và tôi thấy ngay tác giả là người có kiến thức về văn học và sử học Việt Nam, và hơn thế nữa, tác giả là một người yêu quê hương và tự hào về dân tộc Việt.. Hôm nay tôi xin phép được nói ngay là với tôi, tác giả là một người bạn tâm giao, và cuốn sách này là một cuốn sách qúy cần có trong mọi tủ sách gia đình”.

Nhà văn, Khoa học gia Nguyễn Xuân Vinh

Tôi trân trọng cám ơn sử gia Phạm Trần Anh đã dày công nghiên cứu để hôm nay chúng ta có một bộ sử đầy đủ nhất, hữu ích nhất cho thế hệ con em Việt Nam chúng ta. Cuối cùng, xin chân thành cám ơn tất cả quý vị yêu quý lịch sử Việt Nam đã quan tâm tới tiền đồ của dân tộc đang cầm trong tay tác phẩm Nguồn Gốc Dân Tộc Việt với những chứng cứ khoa học nhất, thuyết phục nhất đã giúp tất cả người Việt Nam chúng ta hiểu rõ về ngọn nguồn gốc tích của mình.

TS Nguyễn Anh Tuấn (Khoa học Chính Trị)

Phạm Trần Anh luôn sống lạc quan, ngẩng cao đầu, trong mọi hoạt động dù làm chính trị hay văn hoá ông đều hết lòng vì lý tưởng. Ông như một người luôn đi tìm ý nghiã cho sự tồn tại của chính mình cho dù ở trong nhà tù cộng sản hay giữa chốn phồn hoa của Hoa Kỳ. NẾU SO SÁNH PHẠM TRẦN ANH với các tiền bối thì sẽ không được khiêm tốn, nhưng khi nói về ông tôi thấy cuộc đời của ông có vài nét giống các nhà cách mạng nổi danh như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Cả ba đều là những người yêu nước, vì quốc gia dân tộc thà chấp nhận án tù chứ không chịu khuất phục, là những người yêu văn thơ, làm thơ và lời thơ khá hài hước chua cay, giản dị mà sâu sắc. Tôi không so sánh sự nghiệp chính trị hay giá trị của các tác phẩm, tôi chỉ muốn nói đến cái tinh thần lạc quan trong thơ của Phạm Trần Anh và nhị vị tiền bối. Xưa Phan Bội Châu có Huyết Lệ Thư và nay Phạm Trần Anh có Lược sử Việt Nam, Việt Nam Nước Tôi, Nguồn gốc dân tộc Việt, Nền văn minh Việt cổ, Quốc Tổ Hùng Vương, Huyền Tích Việt, Sơn Hà Nguy Biến và My Country…

BS Alisa Havu (Nữ sĩ Hồng Hà)

Kính gửi Chiến hữu, nhà văn Phạm Trần Anh

Tôi đã nhận được tác phẩm vĩ đại, trình bày mỹ thuật của nhà văn, chiến hữu Phạm Trần Anh. Dù mới đọc lướt qua nhưng tôi đã nhận thấy tác gỉa diễn tả một cách thông minh với chứng minh xác đáng những trang sử vẻ vang về nguồn gốc Việt tộc.

Trong tác phẩm cực kỳ giá trị này, tác giả đã làm nổi bật tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam nghĩa là cái tinh thần nước Việt ( La Vietnamité) mà theo tôi là: “Một phương pháp tư tưởng, một cách viết, nói và hành động theo truyền thống tổ tiên, đã làm cho nước ta hùng tráng với quyết chí vững bền bất khuất trước một quyền lực độc tài trải qua những khúc quanh co của một lịch sử đầy thống khổ.

Tinh thần nước Việt này là di sản của ông cha trong sự bất dịch của toàn dân …”!

LÊ MỘNG NGUYÊN,
Viện sĩ Hàn Lâm viện Pháp

Công trình nghiên cứu công phu của Tác gỉa Phạm Trần Anh về Huyền Tích Việt đã góp phần rất lớn vào công việc tìm hiểu nguồn gốc của tộc Việt. Công trình biên soạn của ông đem lại nhiều hãnh diện cho dân tộc Việt Nam, giúp chúng ta có những kiến thức vững chắc hơn về nền văn hiến của chúng ta. Chính nền văn hiến đó đã là nền tảng của văn hóa Trung Hoa sau này. Tác phẩm rất xứng đáng có một chỗ đứng quan trọng trong tủ sách của người VN, nhất là cho các thế hệ sau này.

TS Nguyễn Thanh Liêm,
Thứ Trưởng Giáo Dục VNCH.

“Được giới thiệu nhà nghiên cứu Lịch sử và văn hóa dân tộc Việt Nam Phạm Trần Anh và cuốn sách mới của ông là “Sơn Hà Nguy Biến” thật là một nỗi vui đặc biệt cho tôi. Trước đây, tôi được đọc những bài phê bình những cuốn sách Nguồn Gốc Việt Tộc và Huyền Tích Việt của ông Phạm Trần Anh, người đã tốt nghiệp Học viện Quốc Gia Hành Chánh ở Việt Nam và tôi thấy ngay tác giả là người có kiến thức về văn học và sử học VN và hơn thế nữa, tác giả là một người yêu quê hương và tự hào về dân tộc VN. Hôm nay, tôi xin phép được nói ngay là với tôi, tác giả là người bạn tâm giao và cuốn sách này là một cuốn sách quý cần có trong tủ sách gia đình”.

Nhà văn Toàn Phong,
Khoa học gia Nguyễn Xuân Vinh

PHẠM TRẦN ANH,
KẺ SĨ CHƯA MỘT LẦN KHUẤT NHỤC …!

Tôi vẫn tự hỏi tại sao, với một thời gian dài đăng đẳng sống trong chốn lao lung khổ nhục với bọn người có đầu nhưng không có óc, phải đối mặt với đối phó với những nhố nhăng, hạ cấp, ti tiện mà bạn vẫn giữ được sự bình tâm để chỉ viết về những đièu vượt thoát ấy trong tâm hồn và đầu ngửng cao để chỉ thấy một Tổ quốc thân yêu được hình thành và trường tồn trong mắt và trái tim mình? …! Vĩ đại làm sao các bậc văn thần đã trở thành Thánh võ trong cuộc đấu tranh vì Tự do và Dân chủ …!

Cố Thi sĩ Trần Thúc Vũ 1999

Ở đây, chúng tôi xin ghi nhận một người mà mai sau, sử sách sẽ ghi tên, và xứng đáng được đồng bào nhớ tới trong phút cúi đầu mặc niệm, đó là Phạm Trần Anh. Bởi vì Phạm Trần Anh theo như tôi biết, cuộc đời của ông là những ngày dài chiến đấu cho tổ quốc. Chiến đấu liên tục. Chiến đấu can trường bất khuất dù ở hoàn cảnh nào. Ông đã đương đầu với cộng sản ngay khi cộng sản vừa chiếm được miền Nam ngày 30 tháng 4, 1975. Ông bị tù biệt giam gần chín năm, bị cùm chân cùm tay, ngày đêm. Gần 9 năm trời chỉ có nằm ngửa nhìn lên trần nhà, từng bị cộng sản dẫn ra sân bắn, bịt mắt, trói tay, lên đạn, nhưng ông cho đợi tiếng súng nổ chứ không đầu hàng, không khai báo, không hợp tác. Do áp lực quốc tế, Phạm Trần Anh được thả khỏi nhà tù nhỏ để sống trong nhà tù lớn. Trong hoàn cảnh bị quản chế, ông vẫn tiếp tục chiến đấu nhưng không bằng súng đạn mà bằng ngòi bút. Trong suốt 9 năm bị CSVN giữ ở trong nước không cho xuất cảnh sang Hoa Kỳ dù hồ sơ đã đầy đủ chỉ vì “Ông là đối tượng số một, nguy hiểm tới nền an ninh quốc gia” như lời một viên đại tá thuộc Hội đồng An ninh CHXHCNVN đã nói “ Có những đối tượng chúng tôi taọ điều kiện cho xuất cảnh định cư tại HK nhưng những đối tượng nguy hại tới an ninh quốc gia, chúng tôi có đủ cách để giữ laị dù đã có đầy đủ hồ sơ can thiệp xuất cảnh …”.

Nhân thời gian còn ở VN, Ông tìm đọc các sách sử cũ bày bán trên vỉa hè, vào các thư viện để nghiên cứu lịch sử và văn hóa dân tộc để soi sáng những thời đại oai hùng đã đánh bại ngoại xâm, giành lại quyền tự chủ cả về chính trị và về văn minh văn hoá. Chủ đích của ông khi biên soạn những cuốn về nguồn gốc dân tộc Việt là muốn võ trang cho thế hệ thanh niên lòng tự hào về dòng giống Lạc Hồng, không hề thua kém trước nước Tầu to lớn. Việt Nam không phải là nước nhược tiểu. Chỉ có những kẻ chủ trương ngửa tay xin viện trợ của nước ngoài mới rêu rao Việt Nam là nước nhược tiểu. Chỉ có những kẻ đầu hàng phương bắc mới nói rằng Việt Nam là nước nhược tiểu để mong nhân dân an phận mà thúc thủ, không nghĩ tới đề kháng quật khởi. Có lòng tự hào dân tộc là có lạc quan cách mạng, và có lạc quan cách mạng thì sẽ có chiến thắng sau cùng.

Nhà Văn ĐỖ TIẾN ĐỨC

“Sách biên soạn rất công phu, tỏ ra tác giả là người có tâm huyết với cội nguồn dân tộc nên đọc nhiều, tra cứu nhiều tài liệu, phát hiện nhiều điểm hết sức lý thú ..!”

Thi sĩ TÔ KIỀU NGÂN

Phạm Trần Anh, một trái tim bao la bát ngát quyện dính theo dòng lịch sử bất hạnh và thăng trầm của giống nòi trong suốt tiến trình xâm lấn, tàn diệt của Hán tộc và nay vẫn còn tiếp diễn …. Nếu không là một người yêu nước vô biên, Phạm Trần Anh không thể thực hiện được công trình tìm về cội nguồn dân tộc với trái tim nồng ấm nhiệt tình sau những tháng năm tù ngục héo hắt thương đau …! … Giữa những trùng trùng bất hạnh của núi của sông, của ngàn xưa ,của hôm nay và của ngàn sau …

Phạm Trần Anh đã đứng giữa đất trời u uất thét vang lời réo gọi .. Âm vang của Cội nguồn Việt tộc sẽ vọng mãi đến muôn đời sau Tôi nợ núi, nợ sông, nợ giống nòi và nợ cả Phạm Trần Anh …!

HẢI TRIỀU Canada tháng 7.2004

THI SĨ DU TỬ LÊ VIẾT VỀ PHẠM TRẦN ANH ..

Phạm Trần Anh một tên tuổi nổi bật trong rất nhiều lãnh vực. Từ sinh hoạt chính trị qua tới lãnh vực thơ, văn, báo chí. Khởi đi từ trước tháng 4-1975 ở quê nhà, ra tới Hải ngoại.
Nhiều bút mực đã đổ ra vì con người đặc biệt này. Nhiều nhân vật tên tuổi từ giới lãnh đạo tinh thần tới văn nghệ sĩ trong cũng như ngoài nước, đã viết về ông với tất cả cảm phục và, trân trọng.

Cụ thể như cảm nghĩ của Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Hội Trưởng Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo, qua bài viết giới thiệu tác phẩm mới nhất của họ Trần, “Đoạn trường bất khuất”, đã ghi nhận như sau: “Ông Phạm Trần Anh là một người anh em kết nghĩa của tôi, tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh và đã dấn thân tranh đấu cho dân chủ ngay thời còn sinh viên… Anh có một tấm lòng rộng rãi tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người. Anh có trình độ nhận thức cao, có đầy đủ chí khí và tinh thần nhiệt huyết, phong cách bình dị, sống gần gũi với anh em, rất thông cảm với anh em bạn tù đặc biệt là những người nghèo khổ, bệnh hoạn và anh em đồng bào thiểu số. Anh thường lui tới an ủi tâm sự với những anh em có trình độ thấp hoặc khốn khó, bơ vơ trong tù. Anh từng leo rào vào ăn uống với anh em bị bệnh lao trong trại tù Xuân Lộc mà không sợ bị lây nhiễm hoặc bị cùm còng kỷ luật của công an CS (…)

“…Trải qua nhiều năm dài trại tù khổ sai của chế độ Cộng sản. Trải qua nhiều năm dài chung sống trong tù, anh luôn giữ trọn khí tiết và tình nghĩa, tôi vô cùng trân trọng mặc dù trong thời gian tù tội anh cũng gặp những nghịch cảnh đau thương như bao nhiêu người tù khác khi người vợ thân yêu của mình vì thời gian xa cách và hoàn cảnh cuộc sống đã quyết định chia tay…”

Tiểu sử của người tù bất khuất Phạm Trần Anh cho biết, ông bị chính quyền CS bắt giữ ngày 3 tháng 7 năm 1977 và bị tuyên án tù chung thân vì tội danh “Hoạt động lật đổ chính quyền”. Hơn 20 năm sau, nhờ sự can thiệp tích cực của Hội Ân Xá Quốc Tế, họ Phạm được trả tự do ngày 3 tháng 8 năm 1997. Nhưng, căn cứ theo bài viết của Thượng tọa Thích Thiện Minh, mở vào tác phẩm “Đoạn trường bất khuất” thì, ngay sau khi ra khỏi tù, họ Phạm vẫn “…nhẫn nại, âm thầm tiếp xúc với quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo và các chiến sĩ đấu tranh cho dân chủ trong nước để vận động thành lập Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam, đồng thời dành hết tâm sức để hoàn thành công trình lớn tìm về “Cội nguồn dân tộc”, một đóng góp to lớn cho dân tộc Việt. Công trình nghiên cứu vô giá của anh rất đáng khâm phục, thật xứng đáng là con dân nước Việt, con cháu của dòng giống Rồng Tiên. Tôi nghĩ tới câu nói của người xưa thật là đúng với con người nặng lòng với đất nước này: ‘ Đi một mình không thẹn với bóng, ngủ một mình không thẹn với chăn vì đã giữ vẹn một tinh thần cao đẹp tinh khiết…!” (Trích ĐTBK trang 3 và 5)

Cũng vậy, khi viết về tác giả “Đoạn Trường Bất Khuất” nhà thơ Phổ Đức ghi: “…Sau khi đi tù về anh dành hết thời gian còn lại để hoàn thành công trình biên khảo lịch sử tìm về cội nguồn Việt Tộc: Việt Nam, Đất Nước và Con Người gồm: “1- Nguồn gốc Việt tộc (1999). 2- Việt Nam thời Lập quốc (2000). 3- Việt Nam thời Vong quốc. 4- Việt Nam thời Độc lập (2002). 5- Quốc Tổ Hùng Vương (2003). 6- Huyền tích Việt. 7- Sử thi đại Việt Nam (2005). 8- Việt Nam thời Ý hệ (đang biên soạn). “Ngoài công trình nghiên cứu tìm về nguồn cội dân tộc, Anh còn góp mặt trong các Tuyển tập Duyên Thơ (1999), Hương Tình yêu (2000), Tiếng thơ (2001), Về nguồn (2002), Tri kỷ hành (2003), Dáng thơ (2004), Hương quê (2005).

“Chúng tôi gặp lại nhau sau 28 năm xa cách, hai anh em ngồi nhắc nhớ những kỷ niệm một thời ở câu lạc bộ Phấn Thông Vàng, nhớ tới anh em thân hữu, bạn bè kẻ còn người mất!!! Một nỗi buồn lắng đọng tâm tư, cả hai không hẹn mà cùng buông tiếng thở dài…Tôi chợt nhớ tới cái anh chàng lãng tử dạo nào ở Saigon với cuộc sống lãng du dễ thương làm thơ hay ra phết và cô bé Trinh ngày đó, mỗi lần lên hát cũng lại bổn cũ soạn lại: ‘Con đường xưa em đi, người ta mắc dây chì thế là em hết đi…’ giờ này chắc cũng làm bà ngoại bà nội rồi còn gì…!?…” (Trích ĐTBK, trang 25, 26).

Trên đây, chỉ là vài trích đoạn từ tác phẩm “Đoạn Trường Bất Khuất” của Phạm Trần Anh. Tôi nghĩ, muốn tiếp cận, hiểu thêm về con người đặc biệt này, không gì hơn là đọc tác phẩm của ông.

NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT, SỬ GIA PHẠM TRẦN ANH

Tác giả Phạm Trần Anh bút hiệu Phạm Trần Quốc Việt sinh năm 1945 tại làng Cát Hạ, huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định.   

Di cư vào Nam năm 1954 và trưởng thành tại Sài Gòn. 

– Học Trường Trung học Nguyễn Trãi và Chu văn An từ 1956-1963  

– Tốt nghiệp Học viện Quốc Gia Hành Chánh Khóa 14 năm 1969.

– Cao Học 2 Chính Trị Xã Hội. 

– Quản đốc Trung tâm Huấn luyện và Tu nghiệp công chức tỉnh Quảng Nam 1969.

– Tốt nghiệp Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức khóa 4 năm 1970 

– Phó Quận trưởng Hành chánh quận Tam Bình Minh Đức, Trà Ôn tỉnh Vĩnh Long (1970-1973). 

– Trưởng ty Hành Chánh kiêm Quản đốc Trung tâm Huấn luyện và Tu nghiệp công chức tỉnh Lâm Đồng 1973 – 1975.

– CT Sáng lập Mặt Trận Người Việt Tự Do Diệt Cộng Phục Quốc 1975.

– CT Hội Bảo Vệ Tù Nhân Chính Trị Việt Nam trong các trại tù CS.

– Đồng sáng lập Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam.

– CT Hội Đồng Điều Hành Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam.

– Hội viên Hội Văn Bút Quốc Tế.

– PCT Hội Quốc Tế Nghiên Cứu Biển Đông Nam Á.

– CT Mặt Trận Dân Tộc Cứu Quốc.

– CT Hội Đồng Điều Hợp Đại Hội Diên Hồng Thời Đại 2014.

– Biên Khảo Lịch sử và Văn hóa Việt Nam.

– Phong Trào Toàn Dân Cứu Nước, LL Quốc Dân Dựng Cờ Dân Chủ..

– Đồng CT kiêm TTK Hội Đồng Liên Kết Quốc Nội Hải Ngoại Việt Nam.

– Chủ Bút Tập san Văn Đàn Thời Đại.  

CÙNG MỘT TÁC GIẢ:

1. Nguồn Gốc Việt tộc (1999).

2. Việt Nam thời Lập quốc (2000).

3. Việt Nam thời Vong quốc (2001). 

4. Việt Nam thời Độc Lập (2002). 

5. Quốc Tổ Hùng Vương (2003).

6. Sử Thi Đại Việt Nam (2005). 

7. Còn một chút gì (Thơ- 2006). 

8. Cội Nguồn Việt tộc ( Hoa Kỳ 2004).

9. Nguồn Gốc Việt Tộc (2007).  

10. Đoạn Trường Bất Khuất (2007).

11. Huyền tích Việt  năm (2008)

12. Sơn Hà Nguy Biến (2008).

13. Hoàng Sa Trường Sa, Chủ Quyền Lịch sử của Việt Nam (2009).

14. Chan Chứa Bao Tình.

15. History of Vietnam.

16. Vietnam, My Country.

17. Đế Quốc Mời Trung Cộng, Kẻ Thù Truyền Kiếp của Dân Tộc.

18. Tác Giả Tác Phẩm.

19. Lịch sử Việt-Danh Tướng Việt.

20. Văn Minh Việt-Danh nhân Văn hóa Việt.

BIOGRAPHY OF HISTORIAN PHAM TRAN ANH

Mr PHAM, Tran ANH was born on 28-1-1945 in Nam Dinh, North Vietnam.

Graduated from the National Institute of Administration (Saigon,1969) and from the Infantry  Officer Training School in1970.

Director of Training centre, Quang Nam Province (1969).

Deputy Chief, Tam Binh District, Vinh Long Province (1970-1973).

Head of Province Administration Service and Director of Training Centre of Lam Dong Province (1973-1975).

Member of International PEN.

Vice Chairman of the International Studies Southeast Asia Sea, USA.

Chairman of the Overseas Executive Council of the Vietnamese Political and Religious Prisoners Fellowship Association 

History and Culture Research publications

– The Life -Sentence Prisoner.

– The Origin of Vietnamese.

– The Historical Miracle of Vietnam.

– The Hung Vuong King.

– Hoang Sa-Truong Sa sovereignty in Vietnam history.

– Son Ha sophistry.

– The Foundation of Vietnam.

– History of Vietnam.

– Vietnamese Ancient Civilizations

ACTIVITIES      

After April 1975, Mr Pham and comrades established the Vietnam Freedom Front. After more than two years hard working under oppressive circumstances , Mr Pham was arrested on 3 July1977 and charged with “attempting to overthrow the communist government” and  therefore life sentenced by the “People’s Court” of Lam Dong Province on 3 August1977.

With the intervention and support from Amnesty International and Human Rights organizations, the government of the Socialist Republic of Vietnam reduced his life sentence to 20 years imprisonment. Under strong international pressure, Mr Pham was released on 3 August 1997 after 20 years and one month confinement in prison.

During this extremely hard time, Mr Pham wrote the above-mentioned publications and established the Fellowship of Vietnam Political and Religious Prisoners, the President of which is Venerable Thich Thien Minh who is a former conscience prisoner in Vietnam with 26 years in prison. After nearly 9 years under strict control by the Vietnamese police and not having been allowed to depart Vietnam under the ODP program, Mr Pham arrived and settled in the USA on 29 February 2006 after the US government‘s effective intervention. 

In January 2008, Mr Pham was invited to Canada, Belgium, France, Germany, Holland and the Czech Republic to provide testimonies as a live victim of the systematic and deliberate violation of human rights by the Vietnam Communist Party and its government. At an international press conference in Prague, the capital of Czechoslovakia, strong allegations were made against the Vietnam communist authorities for committing several counts of indictments when executing more than 300 political and religious prisoners in Vietnam including 2 religious priests and 2 women, one of whom was Mrs TranThi Lan who had been pregnant for 8 months.

In celebrating the International Human Rights Day on 10th December.2012, the California Congress has declared and honoured the Vietnam Prisoners of Conscience Day which Mr Pham was invited to attend. 

INHUMAN PRISON

According to the International Law, Article 7 of the United nations Convenant on civil and political right states: No one shall be subjected to torture or to cruel, inhuman or degrading treatment or punishment. In particular, no one shall be subjected without his free consent to medical or scientific experimentation.

Venerable Thich Thien Minh was 2 times life imprisonment. He was honoured by a condemnation and ambassadors of the United nations as prisoners of conscience. He was 26 years in prison tortured, so he adopted because of the torture regularly medically treated.

Mr Anh T Pham were arrested in July 1977 and were condemned a Life sentence in the prison by the so-called “People’s court” of the Lâm Đồng province.

Between July 3,1977 and August 3,1978, his hands and feed were shackled in detention in Dalat, he receive unsufficient food, was beaten, tortured, his eyes were irradiated by intense light and some and he was executed falsified several times to khủng bố tinh thần để khai thác và ép buộc nhận tội.

From August 3,1978 to October 1984, he was in the prison cell. His feet were shackled day and night with a wooden cancre. He receive only per month 7 kg of and one shower.

In prison camp Xuan Phuoc, he lost a few meters, as the proson quards had beaten him.

Almost 9 years, he was in solitary confinement with shackled hand and feet detained. Due to the efforts of Amnesty International, the Swedish Priminister and many menbers of parliament from several countries, he was release on 03 August 1997, after over 20 years from the jail.

After release from the prison, he sought to leave Vietnam to USA to his family. On September 2006, the Communist regime allowed him to leave the country. His retinas was changed by two artificial retinas, he also received also prostheses. He is currently vice Chaiman of the association of political and religious prisoners in Vietnam. 

Diễn Đàn Việt Thức Phỏng Vấn Nhà Biên Khảo Phạm Trần Anh

Nhà biên khảo Phạm Trần Anh, bút hiệu Phạm Trần Quốc Việt, đã bị CSVN bắt ngày 3.7.1977, bị tòa án Việt Cộng xử chung thân với tội danh “Hoạt động lật đổ chính quyền Cộng sản”. Sau hơn 20 năm tù khổ sai, biệt giam, ông được Hội Ân Xá Quốc Tế [Amnesty International] can thiệp và Việt Cộng đã phải trả tự do cho ông vào ngày 3.8.1997. Hiện ông Phạm Trần Anh đang sinh sống tại California, Hoa Kỳ và liên tục nghiên cứu, biên soạn 12 tác phẩm trong tinh thần “Ôn cố Tri tân”.

Gần đây tác giả Phạm Trần Anh có ghé qua Falls Church, Virginia, ra mắt sách VIỆT NAM NƯỚC TÔI vào ngày 8 tháng 8, 2015, tại trụ sở NHÀ VIỆT NAM.

Diễn Đàn Việt Thức có dịp hàn huyên với nhà biên khảo Phạm Trần Anh qua một cuộc phỏng vấn ngắn gọn sau đây.

1. Diễn Đàn Việt Thức: Xin phép được xưng hô với Anh một cách thân mật vì Diễn Đàn Việt Thức đã từng đăng tải những tác phẩm biên khảo xuất sắc của Anh qua nhiều năm liên tục.  Vậy nhân dịp này, xin Anh cho biết thêm những điểm đáng nhớ về tiểu sử, chức nghiệp, và những sinh hoạt dấn thân, tù đày của Anh trong nước trước khi ra hải ngoại “tỵ nạn cộng sản”.

Phạm Trần Anh: Vâng, trước hết xin cám ơn LS TS Lưu Nguyên Đạt và Việt Thức, một tạp san văn học nghệ thuật rất giá trị mà tôi là một độc giả mến mộ. Thưa anh, thay vì nói về mình về “Cái tôi dễ ghét” của mình, xin trích dẫn thi sĩ Phổ Đức viết về Phạm Trần Anh như sau: “Tốt Nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh 1969, Khóa 4/70 Sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức. Sau ngày mất nước, ở lại Việt Nam thành lập Mặt trận Người Việt Tự do cùng với Thi sĩ Tú Kếu Trần Đức Uyển, nhà văn Trọng Tú. Người Tù Bất Khuất Phạm Trần Anh bị chế độ CSVN bắt ngày 3 tháng 7 năm 1977, toà án Nhân dân tỉnh Lâm Đồng buộc tội: “Tên Phạm Trần Anh là tên phản động ngoan cố cực kỳ nguy hiểm, căm thù sâu sắc giai cấp vô sản, có kinh nghiệm chống phá cách mạng, câu kết với các tổ chức phản động trong nước và các thế lực phản động quốc tế nhằm lật đổ chế độ … Tòa kết án Chung thân, cách ly khỏi xã hội”.

. Sau hai mươi năm 1 tháng tù đày, do sự can thiệp của Tổ chức Ân Xá Quốc tế Amnesty và của Thủ Tướng Thụy Điển, nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã phải trả tự do ngày 3 tháng 8 năm 1997 sau hơn 20 năm tù đầy trong đó bị cùm chân tay gần chín năm trong xà lim.

      Sau hơn 9 năm cầm giữ trong nước không cho xuất ngoại vì “Nguy hiểm đến an ninh quốc gia”. Do sự can thiệp, ngày 2 tháng 9 năm 2006 mới sang đoàn tụ với gia đình tại Hoa Kỳ. Trong thời gian này, Phạm Trần Anh đã tìm tòi nghiên cứu về cội nguồn dân tộc Việt. Đồng thời anh cũng âm thầm cùng với Thượng Tọa Thích Thiện Minh, TT Thích Không Tánh, cư sĩ Trần Hữu Duyên chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Phật Giáo Hòa Hảo … thành lập Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam.

     Thượng Tọa Thích Thiện Minh, người được Đặc Phái Viên Liên Hiệp Quốc Sir Abdelfatad Amor tuyên dương là “Người Tù Lương Tâm của Việt Nam với 26 năm tù ngục viết: “Tháng 5 năm 1996, ông Phạm Trần Anh và tôi đã cùng Thượng Tọa Thích Trí Siêu, Thầy Nguyễn Viết Huân dòng Đồng Công, giáo sư nguyễn Mạnh Bảo Cao Đài, cụ Nguyễn văn Đấu Phật Giáo Hòa Hảo đã đấu tranh chống lao động và học tập chính trị. Chúng tôi đã biến lớp học chính trị của Cộng Sản trong tù thành diễn đàn đấu tranh công khai đòi dân chủ tự do, đòi hủy bỏ điều 4 hiến pháp của cái gọi là nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, đòi quyền sống tối thiểu của con người ngay trong trại tù Cộng sản

     Nhân danh hội Bảo vệ Tù nhân Chính trị bao gồm các thành viên đủ màu sắc tôn giáo đứng lên đấu tranh và cùng ký tên gửi kháng thư tới Liên Hiệp quốc. Bản Kháng thư đã được Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền và Uỷ ban Bảo vệ quyền làm người Việt Nam đưa ra trước Phân ban Nhân quyền Liên Hiệp quốc như sau: “Ngày 27 tháng 5 năm 1996, tập thể tù nhân chính trị tại trại Z30A K1 đã biểu tình đưa kiến nghị đòi cải thiện chế độ lao tù theo đúng như những qui định trong điều 36 về những qui định tối thiểu về việc đối xử tù nhân của Liên Hiệp quốc. Tất cả tù nhân chính trị đã ký tên gồm Đại diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất: TT Thích Thiện Minh, Đại diện Thiên Chúa giáo: Thầy Nguyễn Viết Huân Dòng Đồng Công, đại diện Cao Đài: GS Nguyễn văn Bảo, đại diện Phật Giáo Hòa Hảo cụ Nguyễn văn Đấu và Hội Bảo vệ Tù nhân Chính trị Việt Nam: Huỳnh Hưng Quốc tức Phạm Trần Anh …” .

2. Diễn Đàn Việt Thức: Trong hai mươi năm tù khổ sai, biệt cấm, Anh đã chứng nghiệm được gì, tiếp cận những ai, và tìm ra tâm thức bất khuất  hay phương cách tự vệ nào để chịu đựng và tồn tại?

Phạm Trần Anh: Vâng, thưa anh

Sau ngày mất nước, tôi cùng một số anh em chiến hữu như thi sĩ Tú Kếu, nhà báo Trọng Tú thành lập Mặt Trận Người Việt Tự Do Diệt Cộng Phục Quốc. Sau hơn 1 năm hoạt động bí mật, chúng tôi bị nhà cầm quyền CSVN bắt và đưa ra cái gọi là “Tòa Án Nhân Dân” tại Lâm Đồng xét xử với tội danh Hoạt động lật đổ chế độ. Cáo Trạng của cái gọi là “Viện Kiểm Sát Nhân Dân” cáo buộc tôi như sau: Tên Phạm Trần Anh là tên cực kỳ phản động, cực kỳ ngoan cố, căm thù sâu sắc giai cấp vô sản, có kinh nghiệm chống phá cách mạng, cấu kết với phản động trong nước và quốc tế hoạt động lật đổ chế độ…”. Cái gọi là Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng” xử án chung thân. “Tên giám thị trại giam hỏi tôi có chống án không? Tôi trả lời tôi không chống án vì tôi đâu có công nhận chế độ CS này. Sau khi xử án, Việt gian CS tiếp tục cùm 2 chân tôi trong xà lim biệt gian gần 7 năm. Suốt 7 năm trời…..nên xin lỗi anh, nằm trong xà lim biệt giam những lúc nằm một mình, điều tôi suy nghĩ nhiều là tại sao một chế độ dân chủ tự do lại thua một chế độ kém văn minh, thua kém VNCH về mọi mặt. Tôi suy tư về vận nước, thao thức một mình nói cho văn vẻ hơn là tôi độc thoại trong bóng đêm hay nói theo dân gian là “Tôi chỉ nói chuyện với cái đầu gối của mình…”. Tôi còn nhớ, khi kết cung, tôi có nói với tên Viện Trưởng Kiềm Sát là “Các anh cứ đưa ra đây, một tờ giấy trắng. Tôi ký tên ngay, các anh muốn xử sao tùy các anh, không cần kết cung kết cán gì…”. Tên này đập bàn tức giận bỏ ra ngoài thì cô bé thư ký “CS Ba mươi”chạy đến, vịn vai tôi nói “Trời ơi, chú phải sống. Tại sao chú nói vậy, tên này nó giết bao nhiêu người rồi…”. Tôi phải sống, vâng tôi phải sống bằng mọi giá đã nâng tôi lên mỗi khi bị tra tấn đánh đập, bệnh tật chán nản…Vâng, điều anh nói đúng. Lúc đó tôi còn trẻ mới ngoài 30 nên mang tâm trạng của một Kẻ Sĩ của Nguyễn Công Trứ, thất bại là chấp nhận cái chết không van xin cầu cạnh. Việc tổ chức tuyên truyền, chống lao động, chống học tập chính trị biết nguy hiểm chết như chơi nhưng vẫn làm, không phải vì liều nhưng làm có tính toán kỹ lưỡng, nếu chết thì chấp nhận thế thôi. Đó là điều anh nói là tâm thức bất khuất cũng như phương cách tự vệ đó, thưa anh.Thời gian này, tôi có làm một bài thơ “Ủ Tờ” và bài “Xiềng Xích, xin tặng anh và quý độc giả Việt Thức…

Cơm bưng, nước rót, canh đưa

Hỏi chi sướng vậy, Xin thưa ủ tờ

Ở tù cũng giống đi tu

Chữ tù cùng với chữ tu một vần…

“ Chân cùm tay xích đầu sao xích,

Xích sẽ có ngày xích phải tung ..!

Tư tưởng tinh thần làm sao xích,

Xích sẽ đến ngày xích phải tung …!

A ha .. A ha ..!

3. Diễn Đàn Việt Thức: Khi  ra hải ngoại với tư cách cựu tù nhân chính trị “tỵ nạn cộng sản”, tại sao Anh không chọn con đường “khai thác chính trị” một cách xứng đáng, mà lại miệt mài nghiên cứu văn hoá lịch sử Việt Nam?  Tới nay, Anh đã biên khảo và ra mắt được bao nhiêu tác phẩm, với mục đích gì?

Phạm Trần Anh: Thưa Anh, ngày 17-2-1979 khi Trung Cộng đánh Việt Cộng tôi đang nằm trong xà lim Đại Bình. Thú thật lúc đầu, anh em nằm cùng xà lim trên quan điểm của người Quốc Gia, ai cũng vui mừng mở cờ trong bụng. Sau đó nghĩ tới gần một ngàn năm bị Tàu đô hộ, lòng tôi chùng xuống với nỗi lo âu trước đại họa mất nước vào tay kẻ thù tryền kiếp của dân tộc. Tôi để tâm nghiên cứu lịch sử và ấm ức mãi với câu ca dao “Công cha như núi Thái Sơn…”. Tại sao lại so sánh công cha với ngọn núi Thái Sơn ở bên Tàu rồi Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ… Thế rồi tìm hiểu tại sao sau gần ngàn năm đô hộ mà dân tộc mình vẫn vùng lên giành lại độc lập tự chủ…mà không một dân tộc nào trên thế giới có thể có một trang sử bi hùng lẫm liệt như dân tộc Việt. Sau khi ra tù, tôi đi các tiệm sách cũ trên vỉa đường sài Gòn, vào thư viện tìm sách sử để tìm tòi nghiên cứu nên trong gần 9 năm CS giữ tôi lại, tôi đã viết chui xong 2 quyển Nguồn Gốc Việt Tộc và Huyền Tích Việt. Tháng 9 năm 2006, tôi mới được sang định cư tại Hoa Kỳ, tôi đi khắp các tiểu bang Hoa Kỳ, sang Canada, Úc và 5 nước châu Âu để trình bày về hiện tình đất nước. Ngày 20-1-2007, tôi họp báo tại thủ đô Tiệp Khắc công bố tội ác của chế độ Cộng sản Việt Nam trước công luận quốc tế. Chế độ bạo tàn CS đã xử bắn trên 300 tù chính trị và tôn giáo trong đó có 2 linh mục, 1 vị Thượng Tọa và 2 phụ nữ, trong đó 1 phụ nữ có thai 8 tháng.

Vâng thưa anh, tôi chỉ là một chiến sĩ cách mạng, không theo đuổi mục đích chính trị nên tôi dành hết thời gian còn lại của cuộc đời để phục hồi sự thật lịch sử đã bị đế quốc “Tàu Hán” xưa, cũng như lớp bụi thời gian che phủ mấy ngàn năm. Thưa Anh, với các tiến bộ khoa học của thời đại cách mạng truyền thông, sự thật lịch sử đã được phục hồi với những điều mà tất cả chúng ta không ngờ được. Đó chính là động lực khiến tôi viết tác phẩm Việt Nam Nước Tôi để chứng minh Tàu Hán và Việt là 2 chủng tộc khác nhau hoàn toàn, Việt tộc là một đại chủng và “Cái gọi là Văn hóa Trung Quốc” chính là văn hóa Việt. Đặc biệt, tôi viết Việt Nam Nước Tôi để đánh vào tử huyệt của đế quốc mới Trung Quốc. kết quả DNA chứng minh rằng hơn một nửa dân số Trung Quốc hiện naylà người Tung Quốc gốc Việt cổ đã bị Hán hóa nhưng vẫn giữ bản sắc Việt. Khi những điều kiện khách quan tác động, chắc chắn hồn dân tộc sống dậy sẽ cùng với các dân tộc bị tri Mông, Mãn, Tạng, Hồi vùng lên thì đế quốc mới Trung Cộng sẽ tiêu vong.

4. Diễn Đàn Việt Thức: Trong nỗ lực tìm kiếm nguồn gốc và các trạng thái văn hoá dân tộc Việt, Anh đã dựa vào những giả thuyết nào, những lý luận và phát minh khoa học nào cho phép khám phá và xác định sự thật về văn hoá và lịch sử trên.  Xin Anh minh định vắn tắt, và kết luận rõ ràng.

Phạm Trần Anh: Để tìm về nguồn cội dân tộc, chúng ta không thể căn cứ trên những nguồn chính sử được viết bởi các sử quan đại Hán mà chúng ta phải tìm đến những nguồn sách sử gọi là “Ngoại Thư”, đó là sách sử Trung Quốc nhưng phần lớn do những người Trung Quốc gốc Việt cổ viết nên mới có những nguồn sử liệu trung thực. Thí dụ như quyển Quảng Châu ký, Bách Việt Nguyên Lưu Dư Văn Hóa, Bách Việt Tiên Hiền Chí của Âu Đại Nhậm viết vào  triều Minh Trung Quốc… Ngoài ra, các công trình nghiên cứu dân tộc học, ngôn ngữ học, văn hóa học, khảo tiền sử học, khảo cổ học, văn hóa khảo cổ, di truyền học và Đại Dương học với những kết quả khoa học mới nhất, thuyết phục nhất đã giúp tôi hệ thống hóa tiến trình hình thành nhân chủng Việt để chúng ta hiểu rõ ràng cội nguồn văn hóa và nguồn gốc dân tộc Việt trên cơ sở khoa học…

– Người Tiền sử từ châu Phi tiến sang định cư ở vùng Đông Nam Á nhưng tập trung ở Hòa Bình Bắc Việt Nam. Khi nước biển dâng lên, người tiền sử từ Sundaland và Nanhailand tập trung về vùng cao Hòa Bình và đã thành hình nền văn minh đến nay có thể xem là nền văn minh cổ nhất của nhân loại. Chính cư dân Hòa Bình chính là những người tiền Việt Hoabinhian=Protoviets.

– Khi biển tiến hơn thì hoabinhian Protoviets này phải thiên cư lên hướng Tây Bắc tới cao nguyên chân núi Hy Mã Lạp Sơn Himalaya. Các nhà nhân chủng gọi nhửng người này là chủng Indonnesian nhưng chúng tôi gọi là Malaysian vì xuất phát từ cao nguyên Malaya xuống trung nguyên Trung Quốc.

– Cách đây khoảng 5.500 năm, khi nước biển rút dần thì người tiền Việt di chuyển dần xuống định cư tại lưu vực của các con sông lớn Hoàng Hà, Dương Tử, Cửu Long và Hồng Hà. Nguồn sách sử cổ của Trung Quốc gọi những người này là Di-Việt đã thành lập các nước Bách Việt (Bai-Yue) chúng tôi gọi là Malayoviets nên trước đây, sách sử cũ chép rằng dân tộc Việt từ Động Đình Hồ tiến xuống thành lập quốc gia Văn Lang ở Việt Trì Phú Thọ Bắc Việt Nam.

– Trên thực tế, vua Hùng mở nước Văn Lang ở vùng Cửa Việt, Giao Chỉ nơi 4 con sông giáp nhau Min-Ya-Kon-Ka thuộc vùng Quý Châu Trung Quốc bây giờ. Đến thời kỳ văn hóa Phùng Nguyên, nước biển rút ra biển Đông nên chi Hùng Vương thứ 18 mới tiến xuống vùng châu thổ Bắc Việt Nam bây giờ.

5. Diễn Đàn Việt Thức: Theo đà bạch hoá của nền “Văn hoá Hoà Bình”, xin Anh cho biết thành tố xuất phát, phạm trù tiến hoá và tầm quan trọng của hiện tượng văn hoá lịch sử đó.

Phạm Trần Anh: Theo khoa Đại Dương Học thì trước khi biển tiến cách đây 14.000 năm, 11.500 năm và 8.000 năm, thềm lục địa Nanhailand vẫn còn nối liền với đảo Hải Nam. Thềm lục địa Sundaland vẫn còn trên mực nước biển, nối liền lục địa Á châu với các đảo Sumatra, Borneo, Java nên người cổ Đông Nam Á đi qua các “cầu đất liền” trên vùng rộng lớn này. Người Đông Nam Á cổ bắt đầu thuần hóa các cây quả và thú vật, kết hợp đời sống đánh cá với hái lượm trong rừng, trồng các loại cây như cây đậu ở gần nơi cư trú trong hang động. Trước khi biển tiến cách đây 14.000 năm thì thềm Sunda vẫn còn trên mực nước biển, nối liền lục địa Á châu với các đảo Sumatra, Borneo, Java tạo thành Sundaland cho phép người cổ Đông Nam Á phân tán và đi qua các “cầu đất liền” trên vùng rộng lớn này. Vào thời đồ đá, người tiền sử Đông Nam Á được các nhà nhân chủng gọi là Austro-Asiatic. Những người Austro-Asiatic, chủ nhân của nền văn hoá Hòa Bình Hoabinhian chính là những người Tiền Việt (Protoviets) cư trú ở Việt Nam.

     Trước đây, thế giới cho rằng trung tâm nông nghiệp cổ nhất là ở Lưỡng Hà có niên đại C14 là 7.000 năm. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy động thực vật được thuần dưỡng tại Hòa Bình có độ tuổi 10.000 năm và cư dân Hòa Bình đã chế tác đá cuội cực rắn thành những nông cụ như cầy, cuốc, thuổng để canh tác. Hội nghị Khảo cổ Học Quốc Tế năm 1932 về thời Tiền Sử ở Viễn Ðông xác nhận: “Văn hóa Hòa Bình là trung tâm phát minh nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp cùng chăn nuôi gia súc đầu tiên trên thế giới. Trung tâm nông nghiệp Hòa Bình có trước vùng Lưỡng Hà 3.000 năm”. Học giả Hoa Kỳ C. Sauer kết luận: “Ðúng là nông nghiệp đã tiến triển qua hai giai đoạn mà giai đoạn đầu là văn hóa Hòa Bình. Lúa nước đã được trồng cùng lúc với khoai sọ. Ðông Nam Á là cái nôi của nền nông nghiệp cổ nhất gắn liền với kỹ thuật đánh cá bằng lưới và những động vật gia súc xưa nhất đều bắt nguồn từ Ðông Nam Á. Đây là trung tâm quan trọng của thế giới về kỹ thuật trồng trọt và thuần dưỡng cây trồng bằng cách tái sinh sản thực vật”.

    Các học giả Hoa Kỳ W.G. Solheim II, Gorman, Trương Quang Trực (Trung Quốc) và học giả Nga N. Vavilow đều thừa nhận rằng: “Ðông Nam Á mà khởi nguyên là Việt Nam đã có một nền văn hóa tiền sử phát triển rất sớm, tiên tiến và nhanh chóng, sáng tạo và sống động chưa từng thấy ở nơi nào trên thế giới.”. Nhà nghiên cứu Gorman Chester F nhận định rằng nền văn minh Hòa Bình thành hình trong thời gian thềm lục địa Sundaland và Nanhailand bị ngập lụt. Từ nhiều ngàn năm trước, cư dân Hòa Bình thời nguyên thủy chỉ biết sống bằng săn bắn hái lượm rồi dần dần trồng trọt ruộng khô trong những vùng thung lũng. Khi mực nước biển dâng cao khiến dân cư tụ lại vùng cao ngày một đông, sự thiếu hụt lương thực khiến cư dân Hòa Bình nảy sinh những phát kiến quan trọng, đó là sự ra đời các giống cây cho hạt, những loại ngũ cốc thuần hóa thích hợp để cấy ruộng nước. Đây là chuyển biến quan trọng mang tính đột phá của nền văn minh Hòa Bình cổ nhất của nhân loại.    

     Giới nghiên cứu đã thống nhất quan điểm về nền văn hóa tiền sử Đông Nam Á là nền văn hóa thực vật với đời sống săn bắt hái lượm nguyên thủy. Công trình nghiên cứu về thức ăn của đồng bào Xá, Thái Tày ở Bắc VN cho biết họ chuyên sống bằng 50 loại rau rừng, 40 loại mộc nhĩ, nấm rừng hay măng, 9 loại cây củ và 32 loại côn trùng. Ngoài ra còn có rất nhiều loại nghêu sò ốc hến, ba ba, rùa rắn. Giới nghiên cứu ghi nhận cư dân Sơn Vi đã biết nướng chín thức ăn, và sống quây quần bên bếp lửa lớn với những đống vỏ sò, xương động vật bị nướng cháy. Họ đã tụ cư thành từng gia đình, bếp lửa nhỏ hơn và các nhà khảo cổ đã tìm thấy những ngôi mộ được mai táng ngay bên bếp lửa nơi cư ngụ. Điều này thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa những người còn sống và đã chết, tập tục rắc thổ hoàng lên người chết và chôn những vật thường dùng của người chết chứng tỏ người thời Sơn Vi có một đời sống tâm linh với quan niệm “vạn vật hữu linh,” khởi nguyên của truyền thống thờ cúng ông bà tiên tổ của chúng ta sau này.

    Học giả Andréas Lommel trong tác phẩm “Tiền Sử” đã ghi nhận như sau: “Tất cả miền đất mênh mông từ Thái Bình Dương trở lên đến Hoa Nam Trung Quốc đều có cùng một nền văn hóa. Đảo Bornéo ở Nam Dương (Indonesia) cũng có cùng nghệ thuật như miền sông Hoài thuộc Giang Tô miền Nam nước Ngô thời Xuân Thu Chiến Quốc. Đặc tính văn hóa gắn liền với môi trường sinh sống của thực vật và động vật từ trầu cau, cây dâu đến heo, gà, công. Các phong tục tập quán từ nhuộm răng ăn trầu, xâm mình, cà răng đến lễ hội mừng nước, đua thuyền, vai trò quan trọng của trống đồng và cồng chiêng trong các lễ hội dân gian. Đó là khu vực Văn Hóa Trống Đồng của cộng đồng Bách Việt từ Nam Trung Quốc, Đài Loan, Hải Nam tới Đông Dương gồm Việt Miên Lào, Thái Lan xuống tới bán đảo Mallacca, Mã Lai (Malaysia), Nam Dương (Indonesia), Phi Luât Tân (Philippine), Guinée, quần đảo Micronesia và Pâques.”.                    

     Ngày nay, giới khoa học chính thức công nhận nền văn hoá Hoà Bình là một nền văn hóa cổ đại nhất của nhân loại. Chính điều kiện thiên nhiên thổ nhưỡng của vùng ảnh hưởng văn hoá Hoà Bình này đã hội đủ những điều kiện để vùng Đông Nam Á trải dài từ chân núi Hi Mã Lạp Sơn và Côn Luân xuống tới Nam Á là một trong những cái nôi sinh trưởng đầu tiên của nhân loại. Tiến sĩ W.G Wilheim đã kết luận: “Đông Nam Á đã bắt đầu trồng cây, làm đồ gốm và đúc đồ đồng, sớm hơn các dân tộc Cận Đông, Ấn Độ, Trung Hoa tới cả hàng mấy ngàn năm trong đó Việt Nam là quê hương của nền văn hoá Hoà Bình.”.

Kết quả các công trình khảo cổ, văn hóa khảo cổ đã xác định lộ trình tiến hóa từ nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn tới Sơn Đông, Bá Pha Giả Hồ, Lương Chử, Vân Nam, Nguyên Mưu, Tam Tinh Đôi, Lĩnh Nam và Giang Nam, Ngưỡng Thiều-Long Sơn, Hà Mẫu Độ, Phùng Nguyên, Đông Sơn, Sa Huỳnh và Óc Eo của đại chủng Hoabinhoid với một không gian văn hóa trải rộng khắp vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo, Đông Bắc Á, Đông Nam Trung Quốc sang tới châu Mỹ. Cho tới ngày nay, nền văn hóa Hòa Bình được xem là nền văn hóa cổ nhất của nhân loại và từ người Hòa Bình Hoabinhian=Protoviets tiến hóa thành người Việt hiện đại nói riêng và đại chủng Hoabinhoid nói chung đã làm đảo lộn mọi tri thức lỗi thời trước đây về nền văn minh thế giới…

6. Diễn Đàn Việt Thức: Từ những đặc thù văn hoá nông nghiệp lúa nước, tổ chức làng ấp, và những công trình khai phá sáng tạo tinh vi như thiên văn, tướng số, nung đúc đồ gồm, trống đồng, kiến trúc và hải nghiệp từ ngàn năm xưa có cho phép chúng ta dự đoán đường hướng sinh tồn và phát triển kinh bang tế thế cần thiết cho Đất Nước và Dân Tộc Việt trong tương lai, hậu cộng sản? Xin đề cử một số viễn tượngliên hệ, khả thi trong khu vực và khả ứng đối với lịch trình tiến hoá của nhân loại.

Phạm Trần Anh:

Xin cảm ơn vấn đề mà LSTS đặt ra, đây là thao thức chung của tất cả những người Việt với tâm thức Việt đã đặt ra cho chính mình và cả dân tộc mình. Thưa quý vị, với những kết quả khoa học mới nhất, thuyết phục nhất đã chứng minh dân tộc Việt là một dân tộc có lịch sử lâu đời nhất với nền văn minh cổ nhất của nhân loại. Lịch sử cũng chứng minh rằng dân tộc Việt đã có gần 5 ngàn năm văn hiến chi bang. Trong suốt trường kỳ lịch sử, dân tộc Việt với những thăng trầm lịch sử có một không hai trong lịch sử nhân loại. Lòng yêu nước thương nòi, ý chí kiên cường bất khuất của tiền nhân Việt đã viết lên những trang sử hào hùng lẫm liệt.

Bên cạnh nhũng khốn khó thương đau mất mát của ngày Quốc Hận 30-4-1975 thì hoàn cảnh khách quan của lịch sử đã tạo cho chúng ta một cơ hội để kiến quốc và hưng quốc. Thật vậy, với hơn 4 triệu người Việt lưu vong trên khắp thế giới gần nửa thế kỷ qua, thế hệ thứ hai đã hội nhập và đóng góp đáng kể trên mọi lãnh vực cho dòng sinh hoạt chính của quốc gia sở tại nên trong tương lai chúng ta có một Việt Nam Siêu Biên Cương trên khắp thế giới với nhưng con dân VN người Mỹ gốc Việt, người Canada gốc Việt, người Nga gốc Việt, người Ba Lan gốc Việt, người Anh gốc Việt, người Pháp gốc Việt, người Đức gốc Việt… thì chắc chắn sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc kiến quốc và hưng quốc, cũng như góp phần không nhỏ trong lịch sử tiến hóa của nhân loại. Thưa anh, cũng chính hoàn cảnh lịch sử phải đương đầu với một đế quốc mới Trung Cộng xâm lược, một liên minh các quốc gia Đông Nam Á sớm muộn gì cũng sẽ hình thành để đối trọng với Trung Quốc. Lịch sử đã trao phó cho người Việt quốc gia chúng ta 3 sứ mạng Cứu Quốc, cứu nhân dân thoát khỏi gông cùm Cộng sản và cứu đất nước trước nạn ngoại xâm của kẻ thù truyền kiếp phương Bắc. Sau sứ mạng Cứu Quốc là sứ mạng Kiến Quốc và Hưng Quốc thời kỳ hậu cộng sản, với nguồn nhân lực, vật lực và tài lực của hơn 4 triệu đồng bào Việt Nam ở Hải ngoại, nhất là nguồn tri thức vô giá của thế hệ thứ hai mà không một quốc gia nào có được, tất cả sẽ là nguồn lực phát triển phục hưng dân tộc Việt, chuyển đổi lịch sử để Việt Nam sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới.

7. Diễn Đàn Việt Thức: Trong bài “Văn Minh Cổ Và Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam”, tập TƯ TƯỞNG, nhà biên khảo Cung Đình Thanh đã ghi: “Có lẽ, phát biểu rằng thế kỷ 21 là thế kỷ của văn hóa chắc không quá đáng, bởi vì một khuynh hướng chung hiện nay là các quốc gia trên thế giới đang (hay sắp) qui tụ với nhau thành nhiều nhóm dựa trên văn hóa, mà không dựa trên ý thức hệ (như Chủ nghĩa Cộng sản và Chủ nghĩa Tư bản trong thời gian qua). Trong thế kỷ 21, người ta sẽ hỏi “Anh là ai”, thay vì “Anh thuộc phe nào” trong thế kỷ vừa qua. Tức là một sự chuyển biến về nhận dạng từ ý thức hệ sang văn hóa”.  Tác giả Phạm Trần Anh có cùng quan điểm?  Nhưng “văn hoá” vốn là truyền thống phong tục, tập quán trong không gian và thời gian, nên cũng bị “điều kiện hoá” và có huynh hướng biến hoá, cập nhật hoá như thế nào? Tốt và xấu?

Phạm Trần Anh:

Viễn kiến của học giả Cung Đình Thanh cũng là mong muốn, là ước mơ của tất cả mọi người, sau thời kỳ chiến tranh ý thức hệ, nhân loại sẽ quay về với văn hóa là những gì siêu việt, miên viễn trường tồn hay nói một cách khác là hy vọng thời thái bình thịnh trị sẽ đến với nhân loại. Thế nhưng, phần lớn các học giả, các nhà nghiên cứu chiến lược đều cho rằng sau cuộc chiến tranh ý thức hệ, nhân loại lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh dân tộc và tôn giáo có thể đưa nhân loại đến diệt vong. Thực tế chính trị cho chúng ta thấy rõ điều này, chiến tranh dân tộc, cực đoan tôn giáo xảy ra khắp nơi. Vấn đề đặt ra là làm sao để các dân tộc, các tôn giáo vượt thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn để hướng tới một cuộc cách mạng Văn Hóa Tâm Linh siêu vượt sẽ cứu nhân loại khỏi họa diệt vong. Bằng không thì chính khuynh hướng dân tộc cực đoan của một “Đại Hán” Tập Cẩm Bình, một “Slave” Đại Nga của Putin, Al qaeda rồi Isis của Hồi giáo cực đoan khiến chúng ta tớn những trang sử u tối ngu xuẩn của nhân loại về cuộc chiến tranh tôn giáo thời Trung Cổ…sẽ đưa nhân loại vào ngõ cụt, không lối thoát…

8. Diễn Đàn Việt Thức: Phải chăng “văn hoá” cần có sự thăng hoa bằng minh triết và sự thanh lọc, uốn nắn bằng trách nhiệm đạo đức, bằng giáo dục chân chính?  Nếu “Văn Hoá Việt” có tiềm thức “tự vượt”, thì liệu dân tộc Việt còn đủ khí phách và ý chí vượt khỏi những hiện tượng tệ đoan phi văn hoá như “văn hoá đảng phiệt cộng sản”, “văn hoá căm thù đấu tố”, “văn hoá tham nhũng, cướp ngày”, “văn hoá nam-hoa gian thương, giết người” v.v. để có hy vọng tiến hoá tới gần những nền văn hoá nhân bản, tử tế trên thế giới tân tiến, tự do.  Hay Văn Hoá Việt vẫn còn u mê trong cõi “văng” hoá hang hố Pác Bó?  Hay lại tiếp diễn nỗ lực “hoá-văn” chụp mũ, chửi bẩn, mạ lỵ điên cuồng? Những thứ “văng-hóa” gian lận hoặc “hoá-văn” hà tỳ vô văn hoá đó đang gom thành những dòng nghiệp chướng di căn triệt hạ phẩm giá và sinh lực con người. 


Phạm Trần Anh:

Với chủ trương nô dịch của cộng sản, biết bao thế hệ Việt Nam bị nhồi nhét nền văn hóa Mác-Lê phi nhân tàn bạo mà hậu qủa là tạo ra những cỗ máy vô hồn, những con người vô cảm lạnh lùng, mất gốc. Chúng ta đau lòng khi chứng  kiến nền văn hóa sa sút, đạo đức suy đồi hậu quả của chế độ Việt gian CS đã phá vỡ mọi nền tảng giá trị luân lý đạo đức Việt Nam tự ngàn xưa. Hậu quả của chính sách bóc lột vơ vét, làm giàu trên xương máu của nhân dân để bần cùng hóa nhân dân duy trì sự thống trị của tập đoàn Việt gian CS. Chính do sự nghèo đói cùng cực, người dân phải làm bất kể điều gì để kiếm đủ 2 bữa cơm sống qua ngày nên không cần giữ lễ nghĩa đạo đức luân lý gì nên chúng ta mới thấy văn hóa kim tiền, văn hóa chửi, văn hóa giết người…nói chung là văn hóa vô văn hóa Cộng sản. Chính vì vậy, vấn đề hết sức khẩn thiết là làm sao phải phục hoạt văn hóa Việt, phục hưng minh triết Việt để tẩy rửa mọi ý hệ ngoại lai, mọi ý đồ truyền bá văn hóa “Trung Quốc” đang được “những tên Thái thú mới,” “xác Việt hồn Tàu” đang thi hành mệnh lệnh của quan thầy Trung Cộng ra sức nhồi sọ dân tộc Việt.

Chúng ta tin tưởng rằng sau khi cộng sản xụp đổ, một chế độ mới với những người lãnh đạo mới thực tâm vì nước vì dân với chủ trương dân tộc, nhân bản và khai phóng cùng với sự trở về của đồng bào hải ngoại mang theo lối sống mới và quan trọng hơn nữa là không còn cảnh nghèo đói bần cùng thì xã hội mới với nền giáo dục mới đào tạo một thế hệ Việt Nam mới thì đất nước sẽ đổi thay trong 1 hay 2 ngũ niên để phục hưng dân tộc Việt.

Tự xa xưa, truyền thống Việt cổ của chúng ta vẫn lấy con người làm gốc “Nhân bản,” tôn trọng cá nhân cũng như sự bình quyền nam nữ, không phân biệt giàu nghèo sang hèn. Trong khi Tây phương coi trọng tự do cá nhân thái quá không đếm xỉa gì tới tha nhân, tới lợi ích cộng đồng của nhân quần xã hội. Đó chính là ý nghĩa của đạo đức Việt cổ mà giới học giả Tây phương đều phải hết lời ca ngợi cái gọi là “Giá trị Phương Đông,” tinh hoa của nền văn minh đạo đức Việt Nam.

   Thực tế cuộc sống được chiêm nghiệm suốt chiều dài của lịch sử loài người, đó là tuy đối lập nhưng vẫn hài hòa, thống nhất trong đa dạng thì loài người mới tồn tại mãi tới ngày nay. Bất cứ muôn loài muôn vật muốn tồn tại phải “tương hòa,” đó chính là đạo “Thái hòa” của nền minh triết Việt Nam. Hòa hợp ngay tự bản chất mỗi vật, hòa hợp ngay chính bản thân mỗi người như thể xác với tâm hồn, tình cảm với lý trí, tâm với tính, hài hòa với thiên nhiên, hài hòa trong ứng xử giao tiếp với tha nhân, duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người, giữa dân tộc này với dân tộc khác để cùng tồn tại chứ không cực đoan, mưu đồ tìm cách tiêu diệt lẫn nhau. Cuộc sống đòi hỏi chúng ta phải cùng tôn trọng nhau, chấp nhận nhau dù có sự khác biệt. Phải chấp nhận thống nhất trong đa dạng, lấy yếu tố con người làm đích điểm để cùng chung sống trong hòa bình. Đó chính là triết thuyết Nhân bản cộng tồn, lấy con người là chính để cùng chung sống trong hòa bình an lạc của nền minh triết Việt. Trong khi các quốc gia khác trên thế giới thường chọn một vật tổ biểu trưng, một ý thức hệ làm đích điểm nên đắm chìm trong duy lý cực đoan của nhị nguyên luận. Quan niệm duy lý đã dẫn tới thái độ cực đoan, không chấp nhận bất cứ cái gì khác, A là A chứ không thể vừa A vừa B được. Chính đầu óc duy lý cực đoan trên đã đưa nhân loại đến bế tắc, đến ngõ cụt là một cuộc chiến tranh hủy diệt, hậu quả của lý đối lập loại trừ. Nhân loại đang trải qua thời kỳ khủng hoảng, bế tắc của tư tưởng nên hết chiến tranh ý hệ lại quay sang chiến tranh dân tộc và tôn giáo đe dọa sự sống còn của nhân loại. Chỉ có nền minh triết siêu việt nhân bản tâm linh Việt mới đưa nhân loại thoát khỏi tình trạng bế tắc hiện nay để giải quyết vấn đề nhân sinh trước thềm thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại.


Diễn Đàn Việt Thức: 
Liệu “Việt” còn song hành với “Vượt”? Với tiến hoá, thăng hoa?  Vậy Nguồn Văn Hoá Việt chỉ cần thiết nếu còn trong sáng, còn tinh khiết nuôi dưỡng người. Xin cảm ơn Anh Phạm Trần Anh.