PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG

ĐÁNH THẮNG GIẶC ÂN XÂM LƯỢC

        Bất cứ người Việt nào, chúng ta đều biết tới “Cậu Bé Nhà Trời”, dân gian còn tôn kính gọi là “Thánh Gióng Phù Đổng Thiên Vương” trong kho tàng huyền tích Việt, truyền kỳ lịch sử Việt Nam. Vì thế, hàng năm nhân dân khắp nơi đổ về dự lễ hội tưởng nhớ “Cậu bé nhà Trời”. Thánh Gióng của Việt tộc. Hình ảnh bụi tre thân quen mọc quanh làng xã Việt Nam tiên biểu cho sức mạnh của toàn dân, là bức tường thành bất khả xâm phạm đã ngăn chặn biết bao lần vó ngựa của quân xâm lược Hán tộc phương Bắc. Chính dân làng đã bao lần tổ chức tiêu thổ kháng chiến, thường xuyên đột kích để tiêu hao sinh lực địch, chờ thời cơ tổng phản công đánh tan đạo quân xâm lược kể cả quân Mông Cổ bách chiến bách thắng trong lịch sử. Lịch sử đã chứng minh sức mạnh vô địch của nhân dân mỗi khi tổ quốc lâm nguy toàn dân đứng lên đáp lời sông núi.

        Việt Nam được mệnh danh là xứ sở của “Địa linh nhân kiệt”, nơi mà truyền thuyết đan xen hồ quyện với hiện thực lịch sử. Thật vậy, ông trình nghiên cứu về lịch sử cho chúng ta biết rằng nước Văn Lang ta thuở ấy còn ở vùng Quý Châu nhưng ông cha ta khi chạy xuống Bắc Việt Nam đã mang theo địa danh Vũ Ninh với tất cả chứng tích của làng Phù Đổng thuở xưa.

       Tương truyền, vùng Sóc Sơn là quê hương của Thánh Gióng với một dải núi đồi thoai thoải, uốn lượn quanh co tạo thành một cảnh sắc sơn thuỷ hết sức độc đáo. Dải núi Vệ Linh nơi hội tụ linh khí của dãy núi Tam Đảo đổ xuống gồm 9 ngọn núi, ngọn cao nhất là ngọn Đá chồng tương truyền là nơi Thánh Gióng cởi áo bỏ lại rồi bay về trời. Lưng chừng núi có một tảng đá còn hằn dấu chân Ông Đùng trong huyền tích Ông Đùng Bà Đà của thần thoại Việt. Tương truyền ông Đùng khổng lồ một chân bước lên đỉnh núi Sóc Sơn, một chân bước xuống làng Gióng để lại vết chân mà bà mẹ cậu bé làng Phù Đổng đã dẫm vào rồi về nhà hoài thai sinh ra Thánh Gióng theo như truyền thống “Dã hợp” của người Việt cổ.

       Trong tâm tưởng của dân gian vùng Sóc Sơn thì nơi có “Tảng đá thiêng” là nơi có dấu chân ngựa sắt của Thánh Gióng được dân gian thờ cúng quanh năm. Đó là những đầm, bàu nước dấu tích của vết chân ngựa với những bãi đá ong là phân ngựa, những bãi cát trắng là bọt mép ngựa, những tảng đá vụn là roi sắt, những bụi tre ngà, những con ngựa bị đứt đầu …

        Vua Hùng đã cho xây đền thờ Phù Đổng Thiên Vương còn ghi lại trên văn bia Đền Thượng Thánh Sóc Sơn. Dưới đền Hạ có pho tượng Phù Đổng Thiên Vương đúc bằng đồng trên trán có khắc 3 chữ “Thánh, Thần, Vương”. Đó là tước hiệu mà nhân dân tôn sùng ngài vừa là Thánh, vừa là Thần làng và vừa là Vua của Việt tộc. Bước lên đền Thượng có pho tượng Thánh làm bằng gỗ trầm hương mà theo dân gian thì đó chính là cái cây mà Thánh Gióng đã treo áo trước khi bay về Trời.

        Tất cả người Việt Nam chúng ta ai ai cũng biết Phù Đổng Thiên Vương là cậu bé nhà Trời ở làng Gióng mà dân gian thường gọi một cách sùng kính thân thương là Thánh Gióng. Truyền thống dân gian Việt trân trọng những anh hùng dân tộc, những danh nhân văn hóa, những người cứu nhân độ thế được thần thánh hóa hòa nhập cùng linh khí của đất nước tạo thành hồn thiêng sông núi. Một nữ sĩ ngoại quốc đã hết sức ngạc nhiên xen lẫn thán phục trước một: “xứ sở của huyền thoại, nơi mà huyền thoại và hiện thực đan quyện vào nhau đến nỗi khó có thể phân biệt đâu là huyền thoại đâu là hiện thực nữa”.

         Cho đến nay, khi tìm về lịch sử thời vua Hùng thứ sáu với truyền kỳ lịch sử dân gian được kiểm chứng lại bởi các nguồn sách sử cổ, chúng ta hết sức ngạc nhiên khi thấy huyền tích Thánh Gióng lại phù hợp với niên đại ghi trong sử cổ và niên đại khảo cổ của thời đại kim khí. Thật vậy, nghiên cứu phân tích sự kiện lịch sử đã cho chúng ta những nhận định sau:

         Sự kiện giặc Ân xâm lược nước ta là một sự thật lịch sử.

Qua sự kiện lịch sử này xác định cương giới nước Văn Lang giáp với triều Thương của Trung Quốc. Thời kỳ đó, tộc Việt đã bước vào thời văn minh kim khí.

         Tên nước Việt xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử.

         Huyền tích Phù Đổng Thiên Vương thể hiện ý chí và sức mạnh của toàn dân Việt trong công cuộc bảo vệ giang sơn gấm vóc của tiền nhân để lại cho chúng ta.

          Sách sử Việt còn ghi lại rằng khi quân Tống sang đánh nước ta, vua Lê Đại Hành được Thánh báo mộng và chỉ bảo cách đánh giặc. Sau khi chiến thắng quân Tống vua Lê  ĐạiHành đã gia phong Thánh tước hiệu: “Sóc Sơn Đổng Thiên Vương, Đà Giang hiển thánh, Phù Thánh giá Đại vương, Thượng đẳng Sơn thần”. Vua Lê còn cử Khuông Việt Đại sư Ngô Chân Lưu sửa lại ngôi đền, tạc tượng thần và dựng thêm chùa Đại Bi bên cạnh. Cũng trên đền Thượng còn một câu đối rất hay mà theo dân gian thì đó chính là câu đối của Nguyễn Du khi viếng đền như sau:“ Thiên giáng Thánh nhân Bình Bắc lỗ, Địa lưu Thần tích Trấn Nam Bang”. “Trời giúp Thánh nhân trừ giặc Bắc, Đất lưu Thần tích giữ nước Nam …”.

         Truyền kỳ Phù Đổng Thiên Vương gắn liền với Quốc Tổ Hùng Vương nên dân gian Việt vẫn truyền lưu câu ca dao:

“Tháng Giêng giỗ Thánh Sóc Sơn,

Tháng ba giỗ Tổ Hùng Vương nhớ về!”

          Hội Gióng đền Sóc là một trong những lễ hội dân gian lớn của Việt tộc. Lễ hội bắt đầu từ lúc nửa đêm ngày mồng 6  đến hết ngày mồng 8 tháng Giêng hàng năm. Trong khi đó, tại làng Phù Đổng lại tổ chức lễ hội vào ngày mồng 8 tháng tư hàng năm. Dân gian địa phương thường ví von rằng làm người dânViệt mà không nhớ đến Quốc Tổ, không về dự lễ hội Thánh Gióng thì cũng uổng một đời người, không xứng đáng là con Rồng cháu Tiên: “Ai ơi mồng tám tháng tư, Không xem hội Gióng cũng hư một đời…”.

         Dù trải qua hàng ngàn năm lịch sử nhưng trong tâm thức Việt vẫn ghi đậm ấn tích Phù Đổng Thiên Vương. “Cậu bé nhà Trời” người anh hùng thần thoại của Việt tộc đã đánh thắng giặc Ân lần đầu tiên trong lịch sử, mở đầu cho thiên trường ca bi hùng hoành tráng của Việt tộc. Bài học lịch sử từ huyền tích Phù Đổng Thiên Vương sẽ đưa dân tộc vươn lên ngang tầm thời đại nếu chúng ta biết cùngchung lưng đấu cật để đưa dân tộc đi lên sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới:

“Hoa văn hiến sáu ngàn năm lịch sử,

Tiếng trống Đồng vang dội khắp trời Nam ..

Huyền thoại Rồng Tiên thông điệp muôn ngàn

Văn minh Việt mở đầu trang sử mới ..

Phùng Nguyên, Đông Sơn, Trống Đồng Ngọc Lũ

Hoa văn xưa in dấu mãi ngày nay ..

Bao nhiêu năm mới có được ngày này

Dân tộc Việt vươn mình như Phù Đổng!”

TỪ HUYỀN TÍCH CẬU BÉ NHÀ TRỜI …

        Tất cả người Việt Nam chúng ta ai ai cũng biết Phù Đổng Thiên Vương là cậu bé nhà Trời ở làng Gióng mà dân gian thường gọi một cách sùng kính thân thương là Thánh Gióng. Truyền thống dân gian Việt trân trọng những anh hùng dân tộc, những danh nhân văn hóa, những người cứu nhân độ thế được thần thánh hóa hòa nhập cùng linh khí của đất nước tạo thành hồn thiêng sông núi. Một nữ sĩ ngoại quốc đã hết sức ngạc nhiên xen lẫn thán phục trước một: “xứ sở của huyền thoại, nơi mà huyền thoại và hiện thực đan quyện vào nhau đến nỗi khó có thể phân biệt đâu là huyền thoại đâu là hiện thực nữa”.

        Cho đến nay các nhà viết sử cũng chưa xác định rõ được tính xác thực cũng như thời điểm của huyền tích Phù Đổng Thiên Vương nên câu truyện “Cậu bé nhà Trời” vốn thần kỳ lại trở nên huyền hoặc hơn. Thế nhưng trong niềm tin sâu thẳm của dân gian vẫn hiển hiện một Thánh Gióng, Phù Đổng Thiên Vương phá tan giặc Ân cứu dân cứu nước để dân tộc Việt tồn tại mãi tới ngày nay. Chúng ta hãy cùng nhau thả hồn về quá khứ để cùng sống thật với huyền tích “ Thánh Gióng”, cậu bé nhà Trời của làng Phù Đổng thuở xa xưa ….

        Truyện Thánh Gióng trong “Lĩnh Nam Trích Quái” chép rằng: “Vào đời Hùng Vương thứ 6, thiên hạ thái bình, dân gian sống sung túc đầy đủ. Vua Ân lấy cớ nước ta thiếu lễ vật triều cống nên mượn cớ đi tuần thú để xâm chiếm nước ta. Vua Hùng nghe tin vội triệu tập quần thần vào triều bàn kế hoạch chống quân Ân xâm lược bảo vệ đất nước. Mọi người đều nhất loạt tâu với vua xin lập “đàn” cầu Đức Long Quân về để nhờ sức âm phù mới thắng được giặc. Nhà vua cho lập đàn rồi trai giới thanh tịnh, sắm lễ vật vàng bạc lụa là đầy đủ rồi thắp nhang cầu khẩn suốt 3 ngày. Sắp hết ngày thứ ba, bỗng nhiên sấm chớp đùng đùng rồi một cụ già cao lớn tiên phong đạo cốt, râu tóc bạc phơ ngồi giữa ngã ba đường cười nói múa hát. Dân quanh vùng kéo đến xem cho là bậc phi thường xuất hiện nên tâu lên vua. Vua Hùng thân hành ra bái yết rước cụ già lên “đàn”. Cụ già không ănuống gì và cũng chẳng  nói năng gì mà chỉ nhắm mắt lim dim như đang cầu nguyện điều gì…

        Nhà vua tới quì trước mặt ông cụ rồi mạnh dạn hỏi: “Thưa cụ nếu nay mai giặc Ân kéo đến đánh chiếm nước ta thì phải làm sao, xin cụ chỉ bảo cho”. Ông cụ ngồi yên lặng, một lát sau rút thẻ ra bói rồi mới nói với vua rằng: “Ba năm nữa giặc Ân mới sang quấy phá, vậy nay từ bâygiờ phải lo rèn đúc chiến cụ, luyện tập binh sĩ cho thuần thục, sẵn sáng đánh giặc cứu nước. Đồng thời cho người đi rao tìm khắp trong nước tìm kiếm nhân tài, nếu có người tài giỏi ra giúp nước thì lo gì mà không phá được giặc Ân”. Nói rồi ông cụ bước lên không mà bay lên trời.

        Nhà vua biết là Đức Long Quân giáng phàm để chỉ dậy nên cúi đầu quì lạy tạ hồi lâu. Vua Hùng nghe lời chỉ dậy của Long Quân cho sứ giả đi khắp nước tìm người tài giỏi ra giúp nước. Đã gần hết 3 năm nhưng vẫn chưa thấy ai ra giúp nước, bỗng một hôm sứ giả đến làng Phù Đổng thuộc quận Vũ Ninh. Trong làng có một người nhà giàu đã hơn 60 tuổi ở vậy nên không có con để nối dõi tông đường. Một hơm bà cụ bước ra ngoài vườn hái cà, vô tình đạp phải dấu chân khổng lồ chợt rùng mình, sau về nhà tự nhiên mang thai sinh hạ được một bé trai khôi ngô tuấn tú. Đứa bé ngày một lớn, đã lên 3 tuổi rồi mà vẫn chưa biết nói chỉ nằm ngửa chứ không chịu ngồi dậy. Bà mẹ thấy sứ giả đến kêu gọi người tài ra giúp nước, chạnh lòng bà nói với con rằng: “Sinh được con trai mẹ mừng lắm, thế mà con chỉ biết ăn rồi nằm chẳng chịu đi đánh giặc giúp nước giúp dân. Chẳng bõ công mẹ mang nặng đẻ đau, bú mớm nuôi nấng bấy lâu nay ..!”.

        Đứa bé nghe mẹ nói vậy đột nhiên ngồi bật dậy, cất tiếng nói oang oang: “Mẹ cứ ra mời sứ giả vào đây để con hỏi xem có việc gì mà nhà vua kêu gọi vậy?”. Bà mẹ vui mừng kinh ngạc chạy đi khoe với cả làng rằng: “ Bà con ơi, con tôi thằng bé đã biết nói rồi, nó lại còn đòi gặp sứ giả của nhà vua nữa các bác ạ. Tôi mừng và cũng lo quá chẳng biết làm sao?”. Mọi người trong làng thấy việc lạ lùng nên kéo nhau đến nhà xem đông nghịt rồi bảo bà mẹ cứ mời sứ giả đến xem sao. Bà mẹ vội cho mời sứ giả đến. Sứ giả tới thấy thằng bé mới có 3 tuổi thì nói: “Cháu còn bé mới chỉ vừa biết nói mà kêu ta đến đây làm gì?”. Đứa bé đột nhiên đứng dậy bảo với sứ giả rằng: “Nhà ngươi lập tức về tâu với nhà vua đúc cho ta một con ngựa sắt cao 18 thước, một gươm sắt dài 7 thước, một cái nón sắt để ta đội đi đánh giặc, giặc sẽ tan tành nhà vua việc gì phải lo”.

        Sứ giả vội phi ngựa về tâu lên vua Hùng sự kiện lạ thường này. Nhà vua mừng lắm nhưng một số triều thần dị nghị cho rằng một đứa bé thì làm sao mà phá được giặc? Nhà vua nói: “Đó chính là Long Quân giúp ta đấy. Các ngươi còn nhớ lời Đức Long Quân nói 3 năm về trước không? Các ngươi chớ nên ngờ vực mà đắc tội với Long Quân”. Nói xong nhà vua cho người đi khắp nơi trong nước tìm sắt rồi cho rèn đúc thành ngựa sắt, roi sắt và nón sắt đem tới cho cậu bé. Bà mẹ thấy vậy lấy làm kinh sợ lo lắng, sợ con mình không làm được nhưlời nói với nhà vua sẽ đắc tội khi quân nhưng cậu bé vui cười nói với mẹ rằng: “Mẹ xem trong nhà còn gì ăn để con ăn xong sẽ lên đường đi đánh giặc, mẹ đừng lo sợ gì cả.”

        Bà mẹ đem hết gạo trong nhà ra nấu cơm cho cậu bé ăn nhưng nấu đến đâu cậu bé ăn hết ngay mà chẳng thấm tháp vào đâu. Hàng xóm láng giềng thấy vậy, đua nhau mang từng nong cơm, từng vại cà mắm, từng hũ rượu. Dân làng còn thịt thêm một con trâu nhưng cậu bé ăn vẫn chưa no bụng. Khi dân làng hốt hoảng báo tin cho nhau biết quân Ân đã đánh chiếm núi Trân Sơn thì cậu bé đột nhiên duỗi chân rồi vươn vai, mỗi lần vươn vai đứng dậy thì thân thể cao lên vùn vụt. Dân làng vô cùng kinh ngạc trầm trồ thán phục. Cậu bé bỗng chốc đã cao tới 18 trượng, áo quần không đủ che thân, dân làng phải lấy cây bông lau để cho cậu che thân.

        Cậu bé hắt hơi liền mười tiếng rồi vung gươm thét lớn: “Ta là tướng nhà trời đây!” Thét xong, cậu bé đội nón nhảy lên lưng ngựa sắt phóng như bay về hướng núi Trâu Sơn. Quân lính và cả dân làng chạy theo ào ào. Cậu bé vung gươm sắt tả xung hữu đột giết quân giặc không biết bao nhiêu mà kể. Cho tới khi roi sắt gãy, cậu bé nhổ cả bụi tre để đánh giặc. Quân Ân kinh hồn bạt vía mạnh ai sống sót tháo chạy thục mạng bỏ cả xác vua Ân nằm chết giữa trận tiền. Số sống sót quì lạy xin tướng nhà Trời tha mạng. Cậu bé tha chết cho chúng rồi phi ngựa lên núi Việt, cởi bỏ mũ áo rồi phi ngựa bay thẳng lên trời ..!”.

        Sau khi phá tan giặc Ân, vua Hùng nhớ ơn cậu bé nhà Trời làng Phù Đổng nên phong tặng suy tôn là Phù Đổng Thiên Vương. Đến đời nhà Lý, vua Lý Thái Tổ truy phong là Xung Thiên Thần Vương và truyền cho tạc tượng ở núi Vệ Linh, lập đền thờ bên cạnh chùa Kiến Phúc ở làng Phù Đổng. Hàng năm Xuân Thu nhị kỳ (mỗi năm 2 lần) đều tổ chức tế lễ trọng thể.

        Cho đến ngày nay dân gian vẫn truyền tụng mãi câu thơ tưởng nhớ công lao của Phù Đổng Thiên Vương:

“ Vệ Linh năm tháng đám mây nhàn,

Muôn tía ngàn hồng chiếi thế gian ..

Ngựa sắt lên trời danh lưu sử,

Phù Đổng Thiên Vương của nước Nam!”

ĐẾN HIỆN THỰC LỊCH SỬ

1. GIẶC ÂN XÂM LƯỢC LÀ MỘT SỰ THỰC LỊCH SỬ

        Ngày nay, các nhà Trung Hoa học đều cho rằng lịch sử  Trung Quốc chỉ mới bắt đầu từ triều đại Thương Chu. Tộc Thương là tộc người du mục ở Tây Bắc nên có quan hệ huyết thống với Mông Cổ mà sách sử xưa gọi là Hung Nô (Huns) và Thổ Nhĩ Kỳ (Turc). Tộc người này có nền văn minh du mục, biết nuôi ngựa và biết sử dụng cung tên chiến xa là xe do 4 con ngựa kéo (tứ mã) được che chắn như chiến xa ngày nay làchiến thuật quân sự của du mục phương Bắc nên đánh thắng nhà Hạ của Việt tộc sống về nghề nông một cách dễ dàng.

        Cổ sử Trung Quốc chép: “Thành Thang tên Lý được nhà Hạ phong ở đất Thương, sau họp với chư hầu đem quân về tiêu diệt nhà Hạ. Thành Thang lên ngôi, đóng đô ở Hà Nam, đặt tên nước là Thương. Triều Thương kéo dài 612 năm kể từ năm 1766 đến 1154 TDL gồm 39 đời vua. Đến đới Bàn Canh (1401-1374 TDL) dời đô về đồi Ân nên đổi tên nước là Ân từ đó”.

        Bàn Canh chủ trương tiêu diệt Việt tộc để mở rộng lãnh thổ xuống phương Nam như lời Ngũ Tử Tư viện dẫn lời Bàn Canh chép trong bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên như sau “Nước Việt là cái bệnh trong gan ruột của ta. Nay nhà vua nghe những lời phù phiếm, dối trá của nó mà tham đất Tề, đem quân đánh Tề. Tề cũng ví như ruộng đá không dùng vào được việc gì. Vả lại, bài cáo của Bàn Canh trong Kinh Thi có nói là có bọn cuồng loạn láo xược phải giết hết đi để cho chúng không còn con cháu một mống nào, không cho chúng làm hại cái giống tốt ở ấp này … Đó là điều làm cho triều Thương hưng thịnh. Xin nhà vua bỏ Tề mà đánh nước Việt trước. Nếu không làm thế thì sau này có hối cũng không kịp nữa …”.

        Như vậy, huyền tích Phù Đổng Thiên Vương chép trong Lĩnh Nam Trích Quái phải xảy ra vào khoảng sau thời điểm 1.401-1374 TDL là thời vua Bàn Canh của triều Ân. Để làm sáng tỏ sự kiện lịch sử này chúng ta phải căn cứ vào các nguồn thư tịch cổ cùng với một số “Ngọc Phả” như:

– “Bách-Việt Ngọc-Phả Truyền-thư” ở làng Vân Nội xưa kia thuộc Thanh Oai Hà Nội do Tộc trưởng Nguyễn Đức chép Gia Phả và Quốc Phả ghi rõ năm thứ tư Tân Mùi 971, niên hiệu Thái Bình Thiên quốc đời Đinh Tiên Hoàng.

– “Nam Việt Hùng Vương Ngọc phả Vĩnh truyền” soạn ngày 25 tháng giêng niên hiệu Thiên Phúc năm thứ nhất đời vua Lê Đại Hành tức năm 980.

– “Cổ Việt Hùng thị Thập bát diệp Thánh vương Ngọc phả Cổ truyện” do Hàn Lâm viện Trực học sĩ Nguyễn Cố soạn năm Hồng Đức Đệ tam niên tức năm Nhâm Thìn 1472 đời vua Lê Thánh Tông.

– “Hùng Vương Sự tích Ngọc phả Cổ truyện” của Nguyễn Như Đỗ thời Lê biên soạn.

– “Ngọc phả” Xã Hi Cương Vĩnh Phú và các xã quanh vùng đền thờ vua Hùng.

        Theo các nguồn thư tịch này thì không phải là 18 đời mà là 18 chi, mỗi chi gồm nhiều đời vua. Thứ tự 18 chi tính theo thập Can và thập nhị Chi là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí, Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Mỗi vị vua đứng đầu một chi phong cho nhiều nhánh. Tất cả đều lấy vương hiệu của vị vua đứng đầu chi ấy. Theo các nguồn thư tịch này thì chi Đoài tức tức là chi thứ 8 ghi rõ: “Hùng Vĩ Vương huý Văn Lang, sinh năm Nhâm Thìn 1469 TDL, lên ngôi năm 39 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Vĩ Vương. Chi này ở ngơi tất cả 100 năm từ năm Canh Ngọ 1431 TDL đến năm 1332 TDL ngang với thời Bàn Canh của triều Ân Trung Quốc”.

        Tuy gọi là chi thứ 8 nhưng nếu trừ Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân thì đúng như Lĩnh Nam Trích Quái chép là Hùng Vương thứ sáu. Thực tế này lại phù hợp với truyện cổ tích họ Hồng Bàng kể rằng năm mươi con theo mẹ cùng cử người con trưởng lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là “Văn Lang”. Thực tế lịch sử này được chính cổ sử Trung Quốc chép: “Đời CaoTông nhà Ân vượt Hà đánh nước Quỷ Phương 3 năm không thắng!”. Trong Chu dịch phần quẻ Ký Tế, hào 3 có nói: “Vua đánh các nước Quỉ 3 năm mới được, chớ dùng tiểu nhân …”. Như vậy huyền tích Phù Đổng được xác định bởi cổ sử TQ cho ta biết là việc giặc Ân tiến đánh Văn Lang là có thật.

        Thực tế lịch sử cho ta thấy rằng lãnh thổ Văn Lang thời đó còn ở vùng Quý  Châu Trung Quốc. Thế mà các sử gia của ta từtrước đến giờ nhất là các nhà sử học Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam viết sử theo “Nghị quyết” của đảng Cộng sản nên dựa vào sách sử của Hán tộc chép rằng 15 bộ của nước Văn Lang  xưa chỉ nằm gọn trong phạm vi Bắc và Trung Việt Nam bâygiờ mà thôi. Sự kiện ở huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh có làng Phù Đổng do tiền nhân mang theo địa danh xưa cũ đặt tên cho vùng đất mới nên vội cho rằng bộ Vũ Ninh là ở tỉnh Bắc Ninh. Thực tế lịch sử chứng minh rằng cách đây hàng mấy ngàn năm, giặc Ân mới chỉ từ miền Bắc Trung Quốc vượt qua sông Hoàng Hà tiến xuống phía Nam đánh nước Quy Phương thì làm sao mà đánh Vũ Ninh ở Bắc Ninh Bắc Việt được ? Chính vì “sử quan bị đóng khung” sợ mích lòng quan thầy Trung Cộng nên giải thích sự việc một cách mù mờ khiến huyền tích Phù Đổng càng trở nên huyền hoặc khó hiểu hơn.

        Theo Vũ Quỳnh trong “Tân đính Lĩnh Nam Trích Quái” thì triều Thương có điều quân đi đánh bốn phương, giặc Ân có xuống đến Quý Châu cùng với bộ tộc Thi La Quỷ đánh nước ta vào thời Hùng Vương thứ 6. Nhà nghiên cứu Bùi văn Nguyên trong tác phẩm “Kinh Dịch Phục Hi” xác định vua Cao Tông triều Ân tên là Vũ Định, con của đế Tiểu Ất, cháu của Bàn Canh có đem quân đi đánh chiếm quanh vùng hồ Động Đình và Quý Châu suốt 3 năm không được phải rút quân về.

        Thời kỳ này triều Ân đã khuất phục được bộ lạc Thi La ở phía Nam sông Hoàng Hà. Vũ Định lấy con gái của thủ lĩnh Thi La nên mới dám vượt sông Hoàng Hà cùng với Thi La tiến đánh Văn Lang.

        Gần đây giới khảo cổ Trung Quốc đã tìm thấy phần mộ của hoàng hậu Phụ Hảo, vợ của vua Vũ Định triều Ân. Khi khai quật ngôi mộ, các nhà khảo cổ tìm thấy 2 lưỡi búa “ Phủ Việt” lớn, mỗi cái nặng hơn 9 kg và 2 lưỡi búa nhỏ có khắc tên Phụ Hảo. Theo các nhà nghiên cứu thì Phụ Hảo nguyên là một phương sĩ vì có lúc bà ta đã thay Vũ Định tế lễ hoặc đoán quẻ trên mu rùa. Phụ Hảo còn là nữ danh tướng có lần đã thống lĩnh cả vạn quân lính và tướng lĩnh giúp chồng đánh thắng Thổ Phồn tức Tây Tạng bây giờ, nước Ba và Khương tức chi Môn-Khmer của Việt tộc ở vùng Ba Thục, Quý Châu TQ bây giờ.

        Căn cứ vào loại vũ khí Phụ Hảo sử dụng là lưỡi búa Phủ Việt đặc biệt của Việt tộc cũng như tên Phụ Hảo là cấu trúc văn phạm Việt chứ không phải Hán vì nếu là người Hán thì phải viết là Hảo Phụ. Mặt khác, bà ta lại được chôn riêng chứ không chôn chung với chồng cho phép chúng ta kết luận Phụ Hảo là người Việt, con của thủ lĩnh Thi La nên đã theo chồng đánh lại đồng chủng. Thời kỳ này, ý niệm đồng chủng còn mơ hồ vì tuy đồng chủng nhưng thiên cư từng đợt khác nhau và cách nhau cả ngàn năm nên thủ lĩnh các chi tộc thường đánh lẫn nhau vì quyền lợi riêng tư và để giành ngôi thủ lĩnh lien minh các bộ lạc mà thôi.

2. CƯƠNG GIỚI VĂN LANG ĐỜI VUA HÙNG

        Theo cổ sử Trung Quốc thì lãnh thổ triều Thương Ân thời đó chỉ vỏn vẹn phía Nam tỉnh Hà Bắc, phía Tây tỉnh Sơn Đông khoảng 2 tỉnh ngày nay mà thôi. Bao quanh là hàng trăm nước nhưng trên thực tế là những chi tộc trong cộng đồng Bách Việt gồm những dòng họ lớn như họ Thái Hạo là họ của Phục Hi, họ Thiếu Hạo là họ của Thần Nông, họ Doanh, họ Yểm …

        Theo sách “Địa lý Tối tân Trung Quốc Phân tỉnh đồ” của Trung Quốc do nhà xuất bản Bắc Kinh ấn hành thì nước Quy Phương thời đó là tỉnh Quý Châu bây giờ. Như vậy bộ Vũ Ninh xưa nằm ở Quý Châu, lúc đó có tên là Dạ Lang. Vùng lòng chảo từ Tam Giang Bắc xuống tới Ba Thục là vùng đất đỏ Basalt mới bồi nên “Kinh Thư” gọi vùng này là “ Xích Quy phương”. Chính vì thế mà Kinh Dương Vương đã lấy tên đất vùng này làm tên nước thời cổ đại là XÍCH QUY. Triều Chu tự cho là văn minh nên gọi các nước khác là quỉ, sau khi đánh thắng 9 nước chư hầu Chu Công Quý lịch đã gọi 9 nước này là cửu quỷ. Các sử gia Hán đã lợi dụng sự đồng âm dị tự của chữ Quy để viết là Quỷ. Hán tộc thâm độc đã triệt tiêu văn tự Việt cổ, bóp méo sửa đổi sự thật lịch sử đã qua hàng ngàn năm nên việc phục hồi sự thật khách quan của lịch sử là vấn đề hết sức cần thiết đặt ra cho mỗi chúng ta, những con dân Việt ngày hôm nay.

        Trong suốt chiều dài lịch sử kể từ thời lập quốc, Hán tộc du mục luôn xâm lấn nên đã đẩy lùi Việt tộc từ trung nguyên xuống mãi phương Nam để rồi trụ lại trên phần đất Việt Nam hiện tại. Tiền nhân ta có truyền thống là lúc nào cũng hướngvọng về quê cha đất Tổ xa xưa nên mỗi khi phải rời bỏ quê hương thì luôn mang theo địa danh cũ để đặt tên cho vùng đất mới. Chính vì vậy, chúng ta không ngạc nhiên gì khi ở lưu vực hạ lưu sông Hoàng Hà cũng có địa danh y hệt như ở Việt Nam bây giờ. Từ Tam Giang Bắc gồm 3 con sông Hoàng, sông Lạc và sông Vị tới vùng sông Bộc ở hạ lưu Hoàng Hà có những địa danh châu Phong, Tuyên Quang, Sơn Tây, Hà Bắc, Hà Nam, Hà Đông, Hà Nội, Bình Dương, Vũ Ninh … như ở Việt Nam bây giờ với đầy đủ những ấn tích của thời huyền sử xa xưa.

        Thật vậy, cũng không phải ngẫu nhiên mà tự xa xưa dân gian Việt đã có câu ca dao: “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra ..!”. Núi Thái Sơn nguyên nằm ở vùng Hoa Dương chân cao nguyên Tây Tạng Côn Luân là nơi sinh tụ của Việt tộc. Về sau chi Lạc bộ Trãi xuôi Nam dọc theolưu vực sông Dương Tử rồi lên miền sông  Hoài đến Sơn Đông cũng mang theo tên ngọn núi này đặt tên cho ngọn núi cao nhất ở Sơn Đông. Núi Thái Sơn đã đi vào tâm thức Việt như để nhắc nhở về nguồn cội gốc tích Việt mà tiền nhân ta đã mở nước cách đây ít nhất là 6 ngàn năm lịch sử.

3. NỀN VĂN MINH KIM KHÍ CỦA VIỆT TỘC

       Dấu ấn đặc biệt để lại trong chúng ta mỗi khi nhớ tới huyền tích Phù Đổng Thiên Vương là hình ảnh “Cậu bé nhà Trời” cưỡi con ngựa sắt xông pha trận mạc như chỗ không người. Dẹp xong giặc rồi bỏ áo mũ lại phi ngựa sắt bay vút lên trời cao. Vấn đề là tại sao không cưỡi ngựa thường hay ngựa thần mà lại là ngựa sắt? Phải chăng ngay từ thời vua Hùng thứ 6, Việt tộc đã rèn đúc được vũ khí bằng đồng thau và sắt?

        Ngày nay các nhà nghiên cứu đều thừa nhận là trên địa bàn cư trú của đại chủng Bách Việt(Malayo-Protoviets) có 5 trung tâm luyện đồng nổi tiếng. Năm trung tâm này tạo thành một không gian văn hóa hình bình hành mà cạnh trên từ vùng Kinh-Sở ở phía Đông chạy dài sang phía Tây tới vùng Mogaung Bắc Miến Điện, cạnh dưới từ vùng Attsam với 2 thành phố Harappa và Mohenjo Daro phía Đơng Ấn Độ chạy dài tới phía Đông trung tâm Đồng cổ Đông Sơn ở Bắc Trung Việt và ở giữa là trung tâm Vân Nam của Điền Việt.

        Kết quả của các công trình nghiên cứu và khảo cổ học đã chứng minh rằng nghề luyện kim đồng thau của Việt tộc đã ra đời từ lâu trước sự ra đời của văn hóa Đông Sơn và đã đạt trình độ hết sức điêu luyện. Thời Đông Sơn là thời kỳ văn hóa rực rỡ của người Việt cổ với nghề luyện kim đồng thau đã đạt đến đỉnh cao. Theo nhà bác học Trung Quốc Lăng Thuần Thanh thì dân “Bộc Việt” đã biết chế tạo trống đồng trong khi Hán tộc chưa biết tới đúc đồng là gì”. Khi triều Chu sai Tần Mục Công đánh “Khuyển Nhung” tức người Việt cổ chi Lạc bộ Chuy, Tần Mục Công đã lấy được một chiếc trống đồng của người Lạc Việt.

       Ngoài chiếc trống đồng Ngọc Lũ tìm thấy năm 1914 khi đào đất đắp đê sông Hồng, các nhà khảo cổ đã tìm thấy hàng trăm chiếc trống đồng trong lãnh thổ Việt Nam. Ngày nay cả thế giới đều biết đến trống đồng Việt nam, một di vật đồng thau tiêu biểu nhất không chỉ riêng của Việt Nam mà còn là di sản chung của cả nhân loại nữa.

        Đồng thau là hợp kim tốt có tỉ lệ đồng hơn 80% và thiếc khoảng 15% chứng tỏ sự phát triển cao của kỹ thuật hợp kim đồng thau cũng như kỹ thuật rèn đúc đã đạt trình độ cao. Các nhà nghiên cứu tìm thấy trong thành phần hợp kim đồng thau có tỉ lệ đồng và thiếc giảm xuống, tỉ lệ chì tăng lên để có một hợp kim dẻo hơn dễ bề tạo các chi tiết khi đúc và trang trí hoa văn hơn. Điểm đặc biệt là tuỳ theo công dụng của dụng cụ mà thành phần các kim loại trong hợp kim gia giảm như mũi tên đồng Cổ Loa có một tỉ lệ thích hợp để bảo đảm sức xuyên phá và độ bay xa nên người chế tạo đã đúc 95% đồng, chì từ 3,4 đến 4,2% và phần còn lại là kẽm. Trong khi đó, lưỡi dáo Thiệu Dương cũng như các loại rìu phải có tỉ lệ 73,3% đồng và 13,2% thiếc, chì 5,9% để có độ sắc bén vô  cùng.

        Ngày nay các nhà luyện kim cho rằng hợp kim đồng thiếc chì là một sáng tạo độc đáo với kỹ thuật luyện đồng của người Việt cổ mà đặc trưng là hợp kim đồng thau có hàm lượng chì cao có khi lên tới 20%. Theo các nhà nghiên cứu trong tác phẩm thời đại Hùng Vương thì không phải là đồng trong các đồ đồng nguyên chất lấy trong giới tự nhiên mà là đồng rút ra từ việc lấy quặng.

        Từ các quặng đồng quặng chì, cư dân Văn Lang đã luyện được các hợp kim khác nhau như hợp kim đồng chì. Kết quả phân tích quang phổ thành phần hợp kim thời đại Hùng Vương cho biết hàm lượng đồng trong các đồ đồng chiếm từ 80-90%, hàm lượng thiếc từ 10-20%. Hợp kim có tỉ lệ đồng và thiếc như thế là hợp kim tốt có thể dùng để chế tạo các dụng cụ bền và chắc, đặc biệt là tỉ lệ hợp kim tương đối ổn định. Điều này chứng tỏ ông cha chúng ta ngay thời đại Hùng Vương đã có những tri thức vững chắc về kỹ thuật luyện kim.

        Năm 1977, nhà Đông phương học người Nga G G. Stratanovich đã nhận định: “Trước đây, thậm chí cả đồ đồng Đông Sơn cũng bị cho rằng bắt nguồn từ phương Bắc. Ngày nay tình hình đã thay đổi, người ta đã biết là không những nguồn quặng đồng phong phú mà cả những mỏ đồng cũng như những mỏ vàng, mỏ bạc khác nữa. Giả thuyết về nguồn gốc phương Nam của đồ đồng triều Thương đã trở nên có cơ sở”. Thư tịch cổ Trung Quốc chép rằng các nước Ngô Việt đã tìm được phương pháp kết hợp sự nấu sắt và rèn sắt từ rất lâu vào năm 514 TDL sớm hơn Hán tộc phương Bắc rất nhiều. Ngay cả khi phương Bắc biết nấu sắt thì sắt phương Nam cũng tốt hơn sắt phương Bắc rất nhiều.

        Chính học giả J. Needham đã thừa nhận Hán tộc phải học kỹ thuật nấu sắt của Bách Việt ở phương Nam. Giới khảo cổ cũng tìm thấy một di chỉ lưỡi móc sắt ở Gò Chiền có niên đại C 14 # 2.400 năm. Điều này chứng tỏ Việt tộc đã tiến lên thời luyện kim đồng pha cách đây hàng mấy ngàn năm, ít ra là vào khoảng thiên niên kỷ thứ 3 TDL. Như vậy, có thể vào đời Hùng Vương thứ 6, Việt tộc đã bước vào thời đại đồ sắt nên huyền tích Phù Đổng Thiên Vương mới kể chuyện vua Hùng sai người đi tìm sắt rồi đúc ngựa sắt, roi sắt, nón sắt cho cậu bé nhà Trời. Tuy bước vào thời đại đồ sắt nhưng mới chỉ ở giai đoạn đầu vì chuyện kể roi sắt bị gãy khiến cậu bé phải nhổ từng bụi tre để đánh giặc. Thực tế lịch sử trên hoàn toàn phù hợp với niên đại thành lập nước Xích Quy trong truyền thuyết.

        Gần đây công trình nghiên cứu khoa học có tính thuyết phục xác định cư dân nền văn hóa Hòa Bình tức người Việt cổ đã biết trồng cây, làm đồ gốm và đúc đồ dùng bằng đồng sớm hơn các dân tộc vùng Cận Đông, Ấn Độ, Trung Quốc và sớm hơn phương Tây cả mấy ngàn năm. Chính vì vậy giới khoa học cho rằng vùng Đông Nam Á là nơi phát xuất nền văn minh của nhân loại.

4. TÊN VIỆT XUẤT HIỆN LẦN ĐẦU TRONG LỊCH SỬ.

        Đại Việt Sử lược chép về nguồn gốc và tên của dân tộc ta như sau: “Thời Hoàng Đế dựng muôn nước, cho Giao Chỉ là ở phía Tây Nam ở xa ngồi đất Bách Việt. Vua Nghiêu sai Hi Thị đến Nam Giao để định đất Giao Chỉ ở phương Nam. Vua Vũ chia chín châu thì Bách Việt thuộc về châu Dương, Giao Chỉ thuộc về đấy. Thời Thành Vương mới gọi là Việt Thường Thị, tên Việt bắt đầu từ đấy”. Sách “Thượng thư Đại truyện” và “Hậu Hán Thư” đều chép là thời Chu Thành Vương có họ Việt Thường dâng chim Trĩ trắng.

        Theo Trần Quốc Vượng và Hà văn Tấn thì chữ Việt thời cổ tượng hình cái búa và nước Việt ở Triết Giang vì sản xuất ra búa nên lấy làm tên gọi. Thực ra tên gọi dân tộc Việt đã có ngay từ thời Thương Ân sau chiến thắng của “cậu bé nhà Trời” và quân dân Văn Lang trong huyền tích Phù Đổng Thiên Vương được chính cổ sử của Trung Quốc xác nhận. Giặc Ân đã kinh hoàng khiếp vía trước tinh thần chiến đấu của người Việt cùng với sự xuất hiện của một loại vũ khí lợi hại của người Việt, đó chính là lưỡi búa “Phủ Việt” khiến mấy trăm năm sau chúng cũng không dám xâm phạm bờ cõi Văn Lang. Giặc Ân đã dùng tên gọi loại vũ khí độc đáo này để gọi tên dân tộc ta là bọn “Rìu (Việt)”.

        Theo Vệ Tụ Hiền trong sách “Ngô Việt Thích Danh Thuyết” thì chữ Việt chỉ tên dân tộc chính là chữ Việt chỉ tên cái búa rìu (Phủ Việt). Chữ Việt nguyên thuỷ này gồm một nét ngang dài và một cái móc ở dưới. Theo nhà nghiên cứu Bình Nguyên Lộc thì sở dĩ Hán tộc dùng chữ tượng hình này để chỉ Phủ Việt là cái búa, loại vũ khí lợi hại của Việt tộc đã làm giặc Ân khiếp vía kinh hoàng. Đó là chiếc rìu chiến lưỡi bằng đồng pha cán ngắn thoạt đầu dùng để phóng đi cắt đầu đối phương, sau này mới chế biến lại cán dài dùng để chém. Phủ Việt là loại vũ khí độc đáo lợi hại nên được xem như bản sắc riêng của Việt tộc, chính vì thế tên dân tộc ta gắn liền với loại vũ khí độc nhất vô nhị này.

        Các nhà khảo cổ ở viện Viễn Đông Bác cổ ở Hà Nội thời Pháp thuộc đã đào được ở Quốc Oai giữa Hà Đông và Sơn Tây một lưỡi búa rìu bằng đồng pha mà người Việt gọi là búa mặt nguyệt vì nó trông giống mặt trăng hình lưỡi liềm. Các nhà bác học này đã phục chế lại bằng cách thêm một nhánh cây làm cán thì thấy chữ Việt nguyên thuỷ này có tự dạng giống hệt lưỡi rìu Phủ Việt. Trong Hán ngữ thì chữ Việt là cái rìu còn chữ phủ là cái búa. Ngày nay chữ Việt chỉ cái búa rìu viết có hơi khác một chút, một bên là chữ kim một bên là chữ thích (rìu) để phân biệt với tên dân tộc Việt.

        Đến thời Xuân Thu, Khổng Tử khi san định sách Xuân Thu có chép truyện Chu Thành Vương năm 1.115 TDL đã phong cho Hùng Dịch làm vua đất Kinh Man còn gọi là Kinh Việt thuộc châu Kinh. Chữ Việt này vẫn giữ nét “Thích” tượng trưng cho cái rìu và thêm một nét đặc trưng của cư dân trồng lúa nước nên viết thêm với bộ “mễ”. Chữ Việt này gọi là chữ Việt bộ mễ gồm ở trên là chữ mễ nằm trong khung vuông, đuôi dưới là chữ Việt nguyên thuỷ mà Hán tự gọi là bộ nguyệt vì cái đuôi giống hình mặt trăng lưỡi liềm. Về sau chữ Việt bộ mễ dùng để chỉ riêng chi Âu Việt.

        Cổ sử Trung Quốc còn viết chữ Việt thứ ba để phân biệt với chữ Việt bộ “mễ” chỉ chi Âu Việt. Chữ Việt này được dùng để chỉ “Bách Bộc chi tộc” định cư ở vùng sông Bộc đã vượt sông Hoàng Hà xuống phương Nam chung sống với Lạc Việt đã định cư tại đây cả ngàn năm trước để thành lập quốc gia Bộc Việt. Chữ Việt này có nghĩa là vượt, vượt qua sông Hoàng Hà để chỉ nước Sở là cư dân trồng lúa nước. Cổ sử Trung Quốc viết chữ Việt này gồm chữ “tẩu” là chạy và chữ “tuất” để miệt thị Việt tộc đã bỏ chạy khi triều Thương đã tiêu diệt nhà Hạ.

       Thực tế lịch sử khi giặc Thương diệt nhà Hạ thì phần lớn cư dân Hạ mà cổ sử Trung Quốc gọi miệt thị là rợ Đông Di đã thiên cư lên phương Bắc thành lập các nước Cao Câu Ly, sang Nhật Bản hoặc xuống phương Nam. Thời kỳ này được xem như chấm dứt dòng Thần Nông phương Bắc theo truyền thuyết kể lại chính là thời kỳ khởi đầu cho sự ly tán của Việt tộc để thành lập các quốc gia Bách Việt ở Hoa Nam sau này.

        Chữ Việt thứ tư do Lưu An viết trong tác phẩm “Hoài Nam Tử” vào đời Hán. Lưu An là người nước Sở còn gọi là Kinh Việt, đã từng làm vua miền sông Hoài nên tâm tư lúc nào cũng hướng vọng về quê hương đất Tổ xa xưa. Tự thân chữ Hoài Nam Tử đã diễn tả tâm trạng thương nhớ miền Nam của một con dân nước Sở xưa. Trong tác phẩm Hoài Nam Tử”, Lưu An kể chuyện Tần Thuỷ Hoàng sai Đồ Thư đem 50 vạn quân đánh chiếm phía Nam rặng Ngũ Lĩnh gặp phải sự kháng cự mãnh liệt của Việt tộc nên phải rút quân về. Lưu An viết chữ Việt thứ tư này để diễn tả một thực tế là Việt tộc gồm một trăm chi tộc nhưng vẫn giữ nét chung nhất, bản sắc riêng biệt của Việt tộc là cái búa rìu (Phủ Việt) với chữ “ Thích” nghĩa là cái rìu. Chữ Việt thứ tư này hơi giống chữ Việt thứ ba nghĩa là còn giữ chữ “tẩu” nhưng bỏ chữ “tuất” để thay vào chữ “Thích”. Thích là cái lưỡi rìu nhưng viết giản dị hơn, bên phải là chữ “Qua” nghĩa là ngọn dáo, cái phết và cái chấm ở bên trái chữ tuất được thay bằng một nét đá.

        Chữ Việt thứ tư này phù hợp với lịch sử tiến hóa của Việt tộc, khởi nguyên từ bộ lạc ban sơ du cư du canh với chiếc rìu độc đáo để rồi sau đó đã định cư ở vùng đất phì nhiêu chuyên trồng lúa nước hình thành nền văn minh nông nghiệp. Như vậy tên dân tộc Việt xuất hiện lần đầu tiên gắn liền với huyền tích Phù Đổng Thiên Vương đánh thắng giặc Ân vào đời Hùng Vương thứ sáu. Thực tế này được chính cổ sử Trung Quốc xác nhận danh xưng Bách Việt xuất hiện vào thời Xuân Thu Chiến Quốc. Sách “Bách Việt Tiên hiền Chí Đề yếu” đời Minh Gia Tĩnh giải thích chữ Bách Việt bằng chữ Việt chỉ những dòng họ lớn như họ Từ Phương ở châu Từ nổi tiếng về gốm sứ, họ Phong của Phục Hi tức họ Thái Hạo thờ Rồng nên Phục Hi còn có tên là Thanh Long tức Rồng xanh. Ngoài ra còn có họ Khương tức họ Thiếu Hạo của Thần Nông thờ vật tổ chim, họ Doanh của DươngViệt, họ Yểu của U Việt ở vùng Chiết Giang.

        Sách “Từ Điển” của Từ Hải chép:“Thời Chiến Quốc (475-221 TDL) đất và người Bách Việt nằm ngoài phạm vi thống trị của Hán tộc. Bách Việt là danh xưng chỉ một tập hợp gồm nhiều chi tộc Việt khác nhau mà sử chép không đầy đủ”. Từ Điển Hoa-Việt của Lý văn Hùng người Trung Quốc giải thích Bách Việt (Bai Yùe) là tên chung của một đại dân tộc vào thời cổ sinh sống ở miền duyên hải Nam Trung Quốc như Ô Việt còn gọi là U Việt ở Triết Giang, Dương Việt ở Giang Tây, Mân Việt ở Phúc Kiến, Âu Việt ở Vân Nam Quảng Tây, Nam Việt ở Quảng Đông và Lạc Việt ở xen kẽ với các chi tộc khắp Hoa Nam nhưng tập trung nhất là ở Bắc và Trung phần Việt Nam.

        Tác giả cũng giải thích chữ Việt (Yùe) là vươn lên ngày càng hơn. Việt tẩu chỉ một dân tộc sống về nghề nông, có tinh thần khai phá, có ý chí phấn đấu cao. Tác giả cũng định nghĩa chữ Hán là to lớn, chữ này ghép bởi cách thể nhân theo bộ thuỷ chỉ những người từ Tây Bắc xuống định cư xới đất trồng tỉa ở ven sông Hoàng, sông Hán rồi đánh đuổi Bách Việt xâm lấn dần xuống tới Hoa Nam. Chữ Hán cổ viết tượng trưng vách núi chỉ nơi xuất phát của tộc Hán từ núi rừng Tây Bắc.

        Các chi tộc Việt là cư dân nông nghiệp ở rải rác khắp Trung nguyên không tập hợp được sức mạnh chống lại Hán tộc du mục thiện chiến xâm lược nên bị đẩy lùi dần xuống phương Nam. Cuối cùng, tất cả các chi tộc Việt trụ lại ở phần đất Việt Nam hiện nay cùng chung lưng đấu cật, đoàn kết keo sơn gắn bó, tôi luyện ý chí sống cịn tạo thành một sức mạnh tổng lực của cả Việt tộc nên đã đẩy lùi biết bao lần quân Hán xâm lược để tồn tại mãi tới ngày nay.

5. HUYỀN TÍCH PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG THỂ HIỆN

Ý CHÍ VÀ SỨC MẠNH TOÀN DÂN BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC.

        Câu truyện “ Cậu bé Nhà Trời” sinh ra đã 3 năm nhưng chỉ nằm ngửa không nói không cười rồi đột nhiên cất tiếng  nóikhi sứ giả nhà vua truyền hịch báo “Tổ quốc lâm nguy” kêu gọi toàn dân nổi lên nhất tề lên đường giết giặc cứu nước cứu dân. Việc vua Hùng kêu gọi hiền tài ra giúp nước chứng tỏ chính sách cầu hiền, trọng dụng người tài ra giúp dân giúp nước. Hình tượng cậu bé làng Phù Đổng không nói suốt 3 năm biểu tượng cho lòng yêu nước thương nòi luôn luôn tiềm ẩn trong lòng mọi con dân nước Việt. Đột nhiên cậu bé cất tiếng nói khi sứ giả nhà vua kêu gọi hiền tài ra giúp nước chứng tỏ rằng khi tổ quốc lâm nguy thì tất cả mọi người trẻ già trai gái đều một lòng hi sinh cứu nước. Thật vậy khi nhà vua cho người đem ngựa sắt roi sắt nón sắt đến thì mọi người trong làng, kẻ mang nong cơm người mang vại mắm, lu cà đến để cậu bé ăn. Mỗi lần ăn xong, cậu bé lại vươn vai thân thể càng cao lớn hơn hàm ẩn ý nghĩa thâm sâu là một khi toàn dân tất cả một lòng, huy động hết nhân lực vật lực, tài lực thì sức mạnh của nhân dân ngày một phát huy đến cao độ. Sức mạnh đó tạo thành phong trào rồi thành cao trào toàn dân yêu nước kháng chiến chống giặc ngoại xâm trào dâng như thác đổ với khí thế đạp đầu thù, xem cái chết “nhẹ như lông hồng”, nguyện “da ngựa bọc thây” để cứu dân cứu nước. Lịch sử Việt đã chứng minh sức mạnh vô địch của lòng yêu nước thương nòi đã đánh bại bất cứ đạo quân xâm lược nào dù chúng nấp dưới chiêu bài hoa mỹ mị dân nào!

        Huyền tích Phù Đổng còn cho chúng ta thấy một chân lý là không thể hoàn toàn trông cậy vào đội quân chính quy, vào vũ khí hiện đại mà phải dựa vào nhân dân qua hình tượng Phù Đổng và dân làng Phù Đổng. Chiến thắng giặc Ân còn có sự đóng góp của Lý Tiến và Nữ thần Tam Đảo nguyên là một cô gái trên núi Tam Đảo đã chiêu mộ đoàn nữ binh dũng cảm lập nhiều chiến công. Quân giặc đông đến nỗi Thánh Gióng và quân ta chém giết không xuể, roi sắt cũng phải gãy nên phải nhổ cả bụi tre, dân làng chặt tre làm đòn xóc dùng làm vũ khí giết giặc. Tương truyền sau khi chiến thắng giặc Ân, những gốc tre Thánh Gióng vất bỏ về sau mọc lên những bụi tre do ngựa của Thánh Gióng phun lửa ra cháy xém thành thành màu vàng nên dân làng gọi là tre Đằng Ngà. Nhân dân xã An Vũ huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình đã dựng ngơi đề thở Thánh Gióng ngay trong khu đất có nhiều bụi tre Đằng Ngà mọc.

        Hàng năm nhân dân khắp nơi đổ về dự lễ hội tưởng nhớ “Cậu bé nhà Trời”. Thánh Gióng của Việt tộc. Hình ảnh bụi tre thân quen mọc quanh làng xã Việt Nam tiên biểu cho sức mạnh của toàn dân, là bức tường thành bất khả xâm phạm đã ngăn chặn biết bao lần vó ngựa của quân xâm lược Hán tộc phương Bắc. Chính dân làng đã bao lần tổ chức tiêu thổ kháng chiến, thường xuyên đột kích để tiêu hao sinh lực địch, chờ thời cơ tổng phản công đánh tan đạo quân xâm lược kể cả quân Mông Cổ bách chiến bách thắng trong lịch sử. Lịch sử đã chứng minh sức mạnh vô địch của nhân dân mỗi khi tổ quốc lâm nguy toàn dân đứng lên đáp lời sông núi.

        Việt Nam được mệnh danh là xứ sở của “Địa linh nhân kiệt”, nơi mà truyền thuyết đan xen hồ quyện với hiện thực lịch sử. Thật vậy, ông trình nghiên cứu về lịch sử cho chúng ta biết rằng nước Văn Lang ta thuở ấy còn ở vùng Quý Châu nhưng ông cha ta khi chạy xuống Bắc Việt Nam đã mang theo địa danh Vũ Ninh với tất cả chứng tích của làng Phù Đổng thuở xưa. Tương truyền, vùng Sóc Sơn là quê hương của Thánh Gióng với một dải núi đồi thoai thoải, uốn lượn quanh co tạo thành một cảnh sắc sơn thuỷ hết sức độc đáo.

        Dải núi Vệ Linh nơi hội tụ linh khí của dãy núi Tam Đảo đổ xuống gồm 9 ngọn núi, ngọn cao nhất là ngọn Đá chồng tương truyền là nơi Thánh Gióng cởi áo bỏ lại rồi bay về trời. Lưng chừng núi có một tảng đá còn hằn dấu chân Ông Đùng trong huyền tích Ông Đùng Bà Đà của thần thoại Việt. Tương truyền ông Đùng khổng lồ một chân bước lên đỉnh núi Sóc Sơn, một chân bước xuống làng Gióng để lại vết chân mà bà mẹ cậu bé làng Phù Đổng đã dẫm vào rồi về nhà hoài thai sinh ra Thánh Gióng theo như truyền thống “Dã hợp” của người Việt cổ. Trong tâm tưởng của dân gian vùng Sóc Sơn thì nơi có “Tảng đá thiêng” là nơi có dấu chân ngựa sắt của Thánh Gióng được dân gian thờ cúng quanh năm. Đó là những đầm, bàu nước dấu tích của vết chân ngựa với những bãi đá ong là phân ngựa, những bãi cát trắng là bọt mép ngựa, những tảng đá vụn là roi sắt, những bụi tre ngà, những con ngựa bị đứt đầu …

        Theo dân gian kể lại thì điều đặc biệt là những hố chân ngựa lạ lùng này hố nào cũng tròn vo, đường kính khoảng 10-15 mét, nước chỉ sâu khoảng 60 cm nhưng tát nước không bao giờ cạn. Dưới đáy hồ là bùn loãng nhưng mặt đáy hồ lại là đất cứng, tát nước xong 15 phút sau không biết nước từ đâu ra hồ nước lại đầy. Dân gian kể lại rằng không biết cá từ đâu bơi vào hồ, thường thường cứ 10 ngày tát một lần nhưng khoảng 3 ngày sau lại thấy có những con cá chuối (cá lóc) to bằng cổ tay. Chính tại nơi có những vết chân ngựa này vua Hùng đã cho xây đền thờ Phù Đổng Thiên Vương còn ghi lại trên văn bia Đền Thượng Thánh Sóc Sơn.

        Dưới đền Hạ có pho tượng Phù Đổng Thiên Vương đúc bằng đồng trên trán có khắc 3 chữ “Thánh, Thần, Vương”. Đó là tước hiệu mà nhân dân tôn sùng ngài vừa là Thánh, vừa là Thần làng và vừa là Vua của Việt tộc. Bước lên đền Thượng có pho tượng Thánh làm bằng gỗ trầm hương mà theo dân gian thì đó chính là cái cây mà Thánh Gióng đã treo áo trước khi bay về Trời.

        Sách sử Việt còn ghi lại rằng khi quân Tống sang đánh nước ta, vua Lê Đại Hành được Thánh báo mộng và chỉ bảo cách đánh giặc. Sau khi chiến thắng quân Tống vua Lê  ĐạiHành đã gia phong Thánh tước hiệu: “Sóc Sơn Đổng Thiên Vương, Đà Giang hiển thánh, Phù Thánh giá Đại vương, Thượng đẳng Sơn thần”. Vua Lê còn cử Khuông Việt Đại sư Ngô Chân Lưu sửa lại ngôi đền, tạc tượng thần và dựng thêm chùa Đại Bi bên cạnh. Cũng trên đền Thượng còn một câu đối rất hay mà theo dân gian thì đó chính là câu đối của Nguyễn Du khi viếng đền như sau:

“ Thiên giáng Thánh nhân Bình Bắc lỗ,

Địa lưu Thần tích Trấn Nam Bang”.

Tạm dịch là:

Trời giúp Thánh nhân trừ giặc Bắc,

Đất lưu Thần tích giữ nước Nam …

        Truyền kỳ Phù Đổng Thiên Vương gắn liền với Quốc Tổ Hùng Vương nên dân gian Việt vẫn truyền lưu câu ca dao:

“Tháng Giêng giỗ Thánh Sóc Sơn,

Tháng ba giỗ Tổ Hùng Vương nhớ về!”

        Hội Gióng đền Sóc là một trong những lễ hội dân gian lớn của Việt tộc. Lễ hội bắt đầu từ lúc nửa đêm ngày mồng 6  đến hết ngày mồng 8 tháng Giêng hàng năm. Trong khi đó, tại làng Phù Đổng lại tổ chức lễ hội vào ngày mồng 8 tháng tư hàng năm. Dân gian địa phương thường ví von rằng làm người dânViệt mà không nhớ đến Quốc Tổ, không về dự lễ hội Thánh Gióng thì cũng uổng một đời người, không xứng đáng là con Rồng cháu Tiên: “Ai ơi mồng tám tháng tư, Không xem hội Gióng cũng hư một đời…”.

        Dù trải qua hàng ngàn năm lịch sử nhưng trong tâm thức Việt vẫn ghi đậm ấn tích Phù Đổng Thiên Vương. “Cậu bé nhà Trời” người anh hùng thần thoại của Việt tộc đã đánh thắng giặc Ân lần đầu tiên trong lịch sử, mở đầu cho thiên trường ca bi hùng hoành tráng của Việt tộc. Bài học lịch sử từ huyền tích Phù Đổng Thiên Vương sẽ đưa dân tộc vươn lên ngang tầm thời đại nếu chúng ta biết cùngchung lưng đấu cật để đưa dân tộc đi lên sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới:

“Hoa văn hiến sáu ngàn năm lịch sử,

Tiếng trống Đồng vang dội khắp trời Nam ..

Huyền thoại Rồng Tiên thông điệp muôn ngàn

Văn minh Việt mở đầu trang sử mới ..

Phùng Nguyên, Đông Sơn, Trống Đồng Ngọc Lũ

Hoa văn xưa in dấu mãi ngày nay ..

Bao nhiêu năm mới có được ngày này

Dân tộc Việt vươn mình như Phù Đổng!

You may also like...