TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT 5

2. NỀN VĂN HÓA BẮC SƠN – GIANG NAM

    Nền văn hóa Bắc Sơn vào sơ kỳ thời đại đồ đá mới có niên đại C14 là 10.250±200 tập trung nhiều nhất là các cồn sò ở ngoài trời, trong các hang động đá vôi ở Hòa Bình Bắc Sơn, vùng thượng và trung Lào, Lạng Sơn, Hòa Bình, Ninh Bình và vùng núi vôi Thanh Hóa, Nghệ An. Theo các nhà cổ nhân học thì đến giữa thời đại đá mới cách đây chừng 7-8 ngàn năm, chủ nhân của nền văn hoá Hoà Bình Bắc Sơn có những nét ở sọ và ở mặt rất giống người Việt cổ ở Thiệu Dương (Thanh Hoá) và La Đôi. Nét sọ và mặt gần giống người Việt hiện nay, có chiều cao xấp xỉ 1m58, đầu tròn, mặt tương đối rộng, hai gò má khá cao, mũi dẹt vừa phải, mặt hơi vẩu và đặc biệt có người đã biết nhuộm răng đen. Đó là người Việt cổ ở Thiệu Dương và La Đôi mà so với người Mường gốc ở Hoà Bình không có gì khác biệt. Nền văn hóa Giang Nam gồm văn hóa Tiểu Nhâm Động ở Giang Tây (C14=10.870±210BP).

3. NỀN VĂN HÓA HỒ NAM (10.000 năm TDL)

     Kết quả của các công trình khảo cổ của những di chỉ ở Cảm Nham tỉnh Hồ Nam vùng trung lưu sông Dương Tử với những mảnh Gốm Văn Thừng cùng với những hạt lúa đang được thuần hóa có niên đại 10.000 năm TDL. Di chỉ Bằng Đầu Sơn Hồ Nam với những dấu tích nhà cửa, ruộng lúa cổ nhất, những mảnh gốm có vết trấu dùng để nung gốm và những hạt gạo đã thuần hóa có niên đại 7.600-6.100 TDL cách ngày nay gần 10 ngàn năm (9.619 năm) chứng tỏ đại tộc Việt là cư dân nông nghiệp với nền văn minh lúa nước đầu tiên của nhân loại. Vùng Hồ Nam, Hồ Bắc trước có tên cổ là Châu Kinh của nhà nước sơ khai Xích Quy của tộc Việt với Kinh Dương Vương trong truyền thuyết khởi nguyên của dân tộc.[1]

4. NỀN VĂN HÓA BÁN PHA (7 ngàn năm TDL).

    Lần biển tiến cách đây 11.500 năm và 8.000 năm trước lại xảy ra hiện tượng biển tiến lần sau cùng, mực nước biển dâng lên tới đỉnh Việt Trì, tràn ngập vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Cửu Long khiến cư dân Hoabinhian tức Proto-Viets (Tiền Việt) ở lục địa Nanhailand lưu vực sông Hồng và Sundaland lưu vực sông Cửu Long phải rời bỏ địa bàn cư trú đi lên vùng cao. Khi nước biển rút thì người Hoabinhian => Malaysian => Ancient Vietnamese=> Malayoviets là người Việt cổ xuống định cư ở lưu vực sông Hoàng Hà để lại những di chỉ trên bình gốm Bán Pha 2 của nền văn hóa Ngưỡng Thiều.

     Di chỉ Bán Pha tìm thấy năm 1953 ở thành phố Tây An lưu vực sông Hoàng Hà thuộc giai đoạn Bán Pha của nền văn hóa Ngưỡng Thiều có niên đại 7 ngàn năm TDL. Di chỉ với các ngôi nhà sàn mái dốc cọc gỗ, nền nhà sâu dưới mặt đất khoảng 1 mét có mương bao quanh với lò gốm và khu vực mộ táng với nhà có hình tròn, được xây bằng bùn và gỗ.[2] Di chỉ khảo cổ tại làng Bán Pha, gần Tây An, là một trong các khu định cư có hào rãnh bao quanh vòng tròn được gọi là Khương Trại (姜寨). Hai di chỉ Bản Pha và Khương Trại với các dấu khắc chìm trên đồ gốm, mà một số nhà nghiên cứu cho rằng đó là các con số hay là các tiền đề cho ký tự Trung Hoa sau này.

5. NỀN VĂN HÓA GIẢ HỒ HỒ NAM.

    Lần biển tiến cách đây 11.500 năm và 8.000 năm trước lại xảy ra hiện tượng biển tiến lần sau cùng, mực nước biển dâng lên tới đỉnh Việt Trì, tràn ngập vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Cửu Long khiến cư dân Hoabinhian tức Proto-Viets (Tiền Việt) ở lục địa Nanhailand lưu vực sông Hồng và Sundaland lưu vực sông Cửu Long phải rời bỏ địa bàn cư trú đi lên vùng cao. Khi nước biển rút thì người Việt cổ lại thiên cư xuống vùng đồng bằng lưu vực sông Hoàng Hà sinh sống đã hình thành nền văn hóa cổ đại lưu lại những ký tự cổ khắc trên yếm rùa chữ cổ di chỉ Giả Hồ.

     Giới khảo cổ mới tìm thấy những chiếc Sáo “Lục Cung” và các bình Gốm có dấu tích cồn rượu được lên men từ gạo, mật ong và táo gai ở di chỉ Giả Hồ với độ tuổi (niên đại khảo cổ) từ 6.600 – 6.200 năm TDL tỉnh Hà Nam Trung Quốc bây giờ. TS Garman Harbottle, phòng thí nghiệm quốc gia Brookhaven Newyork Hoa Kỳ cùng với nhóm khảo cổ của trường đại học An Huy Trung Quốc đã tìm thấy 11 ký hiệu đặc biệt khắc trên vỏ mu rùa chôn cùng với thi thể người trong 24 ngôi mộ định tuổi bằng phương pháp đồng vị carbon là từ năm 6.600 năm tới 6.200 năm TDL.

     Giới nghiên cứu nhận thấy những ký hiệu này rất gần gũi với chữ Trung Quốc cổ vì nguyên thủy của chữ Trung Hoa cổ là từ chữ Vuông của người Việt cổ. Trong đó có ký hiệu có biểu tượng con mắt (mục), cửa sổ, số 8 và số 20 giống với những chữ được sử dụng trong văn tự đời Thương hàng ngàn năm sau là mục (目) và nhật (日).

         

Đỉnh trang trí kiểu dây và Vò 2 quai sọc nổi Ngưỡng Thiều,                   giai đoạn Bán Pha khoảng 4.800 TDL.

https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/7/7a/Jiahu_writing.svg/125px-Jiahu_writing.svg.png

Chữ cổ giống chữ Hán” Mục” và “Nhật” hiện đại

https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/5/5d/Neolithic_bone_flute.jpg/1280px-Neolithic_bone_flute.jpg

Chiếc Sáo Già “Giả Hồ Cốt Địch”

6. NỀN VĂN HÓA NGƯỠNG THIỀU HÀ NAM.

    Văn hóa Ngưỡng Thiều là một nền văn hóa thời kỳ đồ đá mới đã tồn tại rộng khắp dọc theo miền trung Hoàng Hà tại Trung Quốc có niên đại khoảng 5000 TDL tới 3000 TDL. Năm 1921, nhà khảo cổ học Thụy Điển là Johan Gunnar Andersson (1874-1960) đã tìm thấy di chỉ tại Tam Môn Hiệp, tỉnh Hà Nam. Nền văn hóa Ngưỡng Thiều bao gồm các tỉnh Hà Nam, Cam TúcThiểm Tây và Sơn Tây. Trước đây giới nghiên cứu cho rằng nền văn hóa Ngưỡng Thiều (Yanshan) gồm văn hóa Pau-P’o ở Thiểm Tây (Sian) có niên đại C14 = 6.065 ± 110 và văn hóa Long Sơn (Lungshan: C14 = 4.260 ± 95) Miao-ti-ku, ở Hà Nam (Henan) là nền văn hóa của Trung Quốc. Người Trung Quốc tự nhận là người Hoa Hạ, dân núi Hoa sông Hạ vì từ xa xưa sinh sống ở ven núi Hoa (Hoa Sơn) tỉnh Thiểm Tây và sông Hạ tỉnh Hồ Bắc.

     Theo truyền thuyết thì vào khoảng từ 4.500 đến 5.000 năm trước đã có cộng đồng dân cư trình độ văn hóa khá cao sinh sống dọc theo thượng nguồn sông Hoàng Hà ờ vùng phía Tây và Tây Bắc Trung Quốc được gọi là văn minh sông Hoàng Hà hay văn minh Hoa Hạ. Ngày nay, những công trình nghiên cứu, những kết quả khảo cổ đã phục hồi một sự thật lịch sử đó là của đại tộc Việt. Kết quả khảo cổ cũng như kết quả đo chỉ số sọ đã cho biết cách ngày nay khoảng 5.500 năm, khi nước biển rút dần thì người Việt cổ từ cao nguyên Malaya xuống định cư ở vùng Tam Giang Bắc gồm 3 con sông Hoàng, sông Lạc và sông Vị còn để lại di chỉ Lão Ngưu Pha và Diêm La Thôn của dòng Thần Nông phương Bắc, sau này là các nước Việt ở Thiểm Tây…

     Người Việt cổ định cư trải dài từ 3 con sông ở phía Bắc (tam giang Bắc) xuống 3 con sông phương Nam gồm sông Nguyên, sông Tương và sông Dương Tử dọc theo triền con sông Nguồn mà Hán tộc đổi tên là Hán Thủy từ thượng nguồn chảy xuống nhập vào sông Dương Tử ở Vũ Hán Hồ Bắc… Sách Thượng Thư gọi vùng đất này là Xích Quy Phương, tên thường gọi là Cửa Việt hay Giao Chỉ. Văn hóa Ngưỡng Thiều đặc biệt với những đồ gốm tráng men trắng, đỏ và đen với các họa tiết trang trí hình mặt người, động vật và các hình hình học. Người Ngưỡng Thiều đóng khố, tóc búi tó còn phụ nữ thì quấn 1 tấm vải dài quanh mình để hở vai, mặc váy hoặc quấn tấm vải để vạt trước giữa 2 chân và buộc về phía sau. Người Ngưỡng Thiều trồng dâu nuôi tằm, dệt sợi gai dầu (vải sô gai) và tơ lụa để mặc. Nhà cửa trát vách bằng bùn trên những tấm liếp, trên mái lợp rơm rạ… Đặc biệt di chỉ hình Rồng, vật tổ biểu trưng của tộc Việt làm bằng clamshells trong lăng mộ của Xishuipo Văn hóa Ngưỡng Thiều ở Puyang tỉnh Hà Nam Trung Quốc. Sự thật lịch sử này đã được nhà bác học Anderson đã dùng phương pháp đo độ tuổi Carbon C 14 xác nhận cư dân Ngưỡng Thiều từ phương Nam đi lên và sọ hoàn toàn khác với cư dân từ Tây Bắc (Hán) tràn xuống. Tất cả đã chứng minh ngược lại là nền văn hóa này đã được khai sinh ở miền Nam rồi di chuyển lên phía Bắc Trung Quốc. Cả 2 nền văn hoá Long Sơn và Ngưỡng Thiều đều bắt nguồn từ nền văn hóa Hòa Bình ở Việt Nam và cái gọi là văn minh Trung Quốc chính là văn minh Việt cổ.

Di chỉ hình Rồng làm bằng clamshells trong lăng mộ của Xishuipo Văn hóa Ngưỡng Thiều ở Puyang tỉnh Hà Nam Trung Quốc.


[1]. Tạ Đức: Nguồn Gốc Người Việt Người Mường, NXB Tri Thức 2013 tr 451.

52. Wikipedia tiếng Việt: Di Chỉ Bán Pha. Ching, Francis D.K. và đồng nghiệp (2007). A Global History of Architecture. New York: John Wiley and Sons. tr. 8–9. ISBN 0-471-26892-5.

TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ 6 “LỊCH SỬ TIẾN HÓA DÂN TỘC”

Qin: Tần, CHU: Sở Việt, Yue: Việt, Han: Shan (Thương), Qi: Di Việt…

5. NỀN VĂN HÓA HÀ MẪU ĐỘ

     Di chỉ Hà Mẫu Độ Hemudu, một làng cổ gần thành phố Yuyao, thuộc tỉnh Triết-Giang (Zhejiang), tìm được vào mùa hè năm 1973. Khám phá này đã làm đảo lộn tất cả quan niệm sai lầm trước đây cho rằng nền văn minh Hà Mẫu Độ là của Trung Quốc. Thực ra, đây là một làng thuộc nền văn minh nông nghiệp, cư dân biết trồng lúa nước, cất nhà sàn, chăn nuôi gia súc, đào giếng, làm gốm, tơ tằm, chèo thuyền, thờ chim cách nay 7000 năm. Ðây cũng là đất tổ của xứ Ðông-Việt của Việt-Vương Câu-Tiễn 越王句踐 thời Xuân-Thu Chiến-Quốc (722 đến 222 TDL). Tạp chí Science đã công bố lúa nước có niên đại là 7.000 năm. Bản đồ National Geographic Company ấn hành năm 1991 ghi rõ từ hạ lưu sông Hoàng Hà trở xuống là Di Việt với nền văn minh lúa nước đầu tiên trên thế giới.[1]

     Nền văn hoá Hà Mẫu Độ với niên đại 7000 năm có nhiều điểm gần gũi với văn hoá Phùng Nguyên-Đông Sơn nhưng cổ hơn. Cư dân Hoabinhian Protoviets từ Hoà Bình Bắc Việt Nam thiên cư lên hướng Bắc để tránh nạn biển tiến đã định cư ở đây từ lâu rồi sau khi nước biển rút cách đây khoảng 5.500 năm, một số lại xuôi Nam dần dần trở về vùng đất Tổ để hình thành nền văn hoá Phùng Nguyên sau này. Giới nghiên cứu đã ghi nhận hàng loạt văn hoá lúa nước phát xuất từ văn hoá Hà Mẫu Độ dọc lưu vực sông Dương Tử (Trường giang) khoảng 4000 năm trước như văn hoá Liangzhu, Majiabin, Quinshanyang, Qujialing, Daxi, Songze và văn hoá Dadunze.

     Văn hóa Hà Mẫu Độ (5.000-4.500 TDL) ở vùng Nam Triết Giang được giới khảo cổ quốc tế đánh giá là một chứng tích tiến hóa lịch sử của nhân loại với những đặc điểm như sau:

– Một nền nông nghiệp cổ: cách ngày nay 7 ngàn năm với thóc, trấu, rơm, rạ khoảng 12 tấn lúa dày 1 m, trong đó nửa là lúa trồng đã thuần hóa, nửa là lúa dại trong đó, phần lớn là lúa tẻ, còn lại là lúa nếp… Cư dân Hà Mẫu Độ đã biết thuần hóa gia súc như chó, trâu, heo… Giã gạo bằng chày cối, nấu chín thức ăn bằng nồi và dùng bát đũa để ăn cơm…

– Những chiếc Rìu Việt cổ nhất: Rìu có lỗ tra cán, là nguồn gốc của biểu tượng Việt trên rìu Lương Chử và Văn giáp Cốt.

– Những dụng cụ mai, xẻng để đào đất, xúc đất bằng xương trâu mà sau này, người Lương Chử chế tạo ra những Nha Chương. Xương trâu cũng được chế tác thành những vật dụng như chiếc lao có ngạnh, dao găm, lưỡi cày, con thoi dệt vải, trâm cài tóc…

– Nghề dệt may sớm nhất với những dụng cụ như 300 chiếc dọi xe sợi, 90 cái kim bằng xương…

– Chế tạo Sơn màu sớm nhất 5 ngàn năm TDL.

– Những ngôi nhà làng có cột, kèo lắp bằng mộng gồm nhiều buồng, có hành lang cổ nhất hiện còn thấy ở cư dân Nam Đảo gốc Bách Việt ở Indonesia…

– Thạo nghề đi biển sớm nhất với thuyền, bè, mái chèo gỗ sào chống nên đã chinh phục đại dương cách đây 7 ngàn năm…

– Những đồ trang sức như hạt chuỗi bằng ngọc, khuyên tai, vòng…

– Truyền thống thờ Chim là vật tổ biểu trưng sớm nhất với những miếng Ngà có khắc hình đôi chim chầu mặt trời, cán dao khắc hình chim, đồ gốm hình chim của tộc người Dương Điểu thờ chim mặt trời…

8. NỀN VĂN HÓA NGƯỠNG THIỀU HÀ NAM.

    Văn hóa Ngưỡng Thiều là một nền văn hóa thời kỳ đồ đá mới đã tồn tại rộng khắp dọc theo miền trung Hoàng Hà tại Trung Quốc có niên đại khoảng 5000 TDL tới 3000 TDL. Năm 1921, nhà khảo cổ học Thụy Điển là Johan Gunnar Andersson (1874-1960) đã tìm thấy di chỉ tại Tam Môn Hiệp, tỉnh Hà Nam. Nền văn hóa Ngưỡng Thiều bao gồm các tỉnh Hà Nam, Cam TúcThiểm Tây và Sơn Tây. Trước đây giới nghiên cứu cho rằng nền văn hóa Ngưỡng Thiều (Yanshan) gồm văn hóa Pau-P’o ở Thiểm Tây (Sian) có niên đại C14 = 6.065 ± 110 và văn hóa Long Sơn (Lungshan: C14 = 4.260 ± 95) Miao-ti-ku, ở Hà Nam (Henan) là nền văn hóa của Trung Quốc. Người Trung Quốc tự nhận là người Hoa Hạ, dân núi Hoa sông Hạ vì từ xa xưa sinh sống ở ven núi Hoa (Hoa Sơn) tỉnh Thiểm Tây và sông Hạ tỉnh Hồ Bắc.

     Theo truyền thuyết thì vào khoảng từ 4.500 đến 5.000 năm trước đã có cộng đồng dân cư trình độ văn hóa khá cao sinh sống dọc theo thượng nguồn sông Hoàng Hà ờ vùng phía Tây và Tây Bắc Trung Quốc được gọi là văn minh sông Hoàng Hà hay văn minh Hoa Hạ. Ngày nay, những công trình nghiên cứu, những kết quả khảo cổ đã phục hồi một sự thật lịch sử đó là của đại tộc Việt. Kết quả khảo cổ cũng như kết quả đo chỉ số sọ đã cho biết cách ngày nay khoảng 5.500 năm, khi nước biển rút dần thì người Việt cổ từ cao nguyên Malaya xuống định cư ở vùng Tam Giang Bắc gồm 3 con sông Hoàng, sông Lạc và sông Vị còn để lại di chỉ Lão Ngưu Pha và Diêm La Thôn của dòng Thần Nông phương Bắc, sau này là các nước Việt ở Thiểm Tây…

     Người Việt cổ định cư trải dài từ 3 con sông ở phía Bắc (tam giang Bắc) xuống 3 con sông phương Nam gồm sông Nguyên, sông Tương và sông Dương Tử dọc theo triền con sông Nguồn mà Hán tộc đổi tên là Hán Thủy từ thượng nguồn chảy xuống nhập vào sông Dương Tử ở Vũ Hán Hồ Bắc… Sách Thượng Thư gọi vùng đất này là Xích Quy Phương, tên thường gọi là Cửa Việt hay Giao Chỉ. Văn hóa Ngưỡng Thiều đặc biệt với những đồ gốm tráng men trắng, đỏ và đen với các họa tiết trang trí hình mặt người, động vật và các hình hình học. Người Ngưỡng Thiều đóng khố, tóc búi tó còn phụ nữ thì quấn 1 tấm vải dài quanh mình để hở vai, mặc váy hoặc quấn tấm vải để vạt trước giữa 2 chân và buộc về phía sau. Người Ngưỡng Thiều trồng dâu nuôi tằm, dệt sợi gai dầu (vải sô gai) và tơ lụa để mặc. Nhà cửa trát vách bằng bùn trên những tấm liếp, trên mái lợp rơm rạ… Đặc biệt di chỉ hình Rồng, vật tổ biểu trưng của tộc Việt làm bằng clamshells trong lăng mộ của Xishuipo Văn hóa Ngưỡng Thiều ở Puyang tỉnh Hà Nam Trung Quốc. Sự thật lịch sử này đã được nhà bác học Anderson đã dùng phương pháp đo độ tuổi Carbon C 14 xác nhận cư dân Ngưỡng Thiều từ phương Nam đi lên và sọ hoàn toàn khác với cư dân từ Tây Bắc (Hán) tràn xuống. Tất cả đã chứng minh ngược lại là nền văn hóa này đã được khai sinh ở miền Nam rồi di chuyển lên phía Bắc Trung Quốc. Cả 2 nền văn hoá Long Sơn và Ngưỡng Thiều đều bắt nguồn từ nền văn hóa Hòa Bình ở Việt Nam và cái gọi là văn minh Trung Quốc chính là văn minh Việt cổ.


[1]. Như Thường Trương Bổn Tài: Việt Học Là Gì? NXB Trăm Giống Việt 2010. Hemudu là ký âm bằng tiếng Anh của thổ ngữ, ký âm bằng tiếng Trung Quốc là Hà-mỗ-Độ. Nhà khảo cổ Thái, GS Surin Pookajorn đã tìm được những hạt lúa cổ ở hang Sakai có niên đại C14 cách ngày nay là 9.260-7.620 năm nên văn hóa Hòa Bình mới là cái nôi của nền văn minh lúa nước đầu tiên của nhân loại.

You may also like...