TÂM TÌNH LỊCH SỬ

TÂM TÌNH LỊCH SỬ

     Là người Việt Nam, chúng ta tự hào là con Rồng cháu Tiên thế nhưng, mỗi khi tìm về nguồn cội dân tộc thì nỗi ray rứt niềm băn khoăn làm nhức nhối tâm can biết bao con dân đất Việt. Ngay từ khi còn cắp sách đến trường, bài học thuộc lòng thuở đầu đời “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con…”. Biết bao câu hỏi được đặt ra trong đầu óc ngây thơ trong trắng như núi Thái Sơn ở đâu thì được thầy trả lời ở bên Tàu. Ai trong chúng ta mà không đặt câu hỏi tại sao công cha nghĩa mẹ lại so sánh với núi Thái Sơn ở bên Tàu?

     Lớn lên học văn chương truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du thì lại được giảng thêm là Nguyễn Du phỏng theo cốt truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân bên Tàu. Nhân vật Từ Hải quê ở Việt Đông, người anh hùng Việt tộc “chọc trời khuấy nước một thời” thì bị xem như một thảo khấu chống lại triều đình!. Thế rồi ai trong chúng ta mà chẳng một lần ấm ức xen lẫn hoài nghi khi nghe nói về huyền thoại Rồng Tiên, truyền thuyết khởi nguyên của dân tộc bị một số trí thức “Tây học” chê là hoang đường huyền hoặc.

     Chúng ta lại càng hổ thẹn hụt hẫng khi đọc quyển sử “Việt Nam Thời Khai Sinh” của Linh mục Nguyễn Phương khẳng định người Việt chúng ta gốc là người Tàu! Thật là điều đáng buồn là các sử gia thời quân chủ phong kiến chỉ tin vào chính sử Trung Quốc, còn các nguồn gốc sử liệu khác thì chê là “Ngoại thư” không thể tin được. Thậm chí các ông nho sĩ ta thời trước còn tôn thờ Sĩ Nhiếp là Sĩ Vương trong khi các ông quên hẳn một điều là dù muốn dù không, Sĩ Nhiếp cũng là một tên Thái Thú sang cai trị dân ta. Chính Sĩ Nhiếp chứ không ai khác đã đem chữ Hán nô dịch đồng hoá dân tộc ta. Dân ta không chịu học chữ Hán, vẫn dùng ngôn ngữ Việt cổ nên Sĩ Nhiếp cấm dân ta viết chữ tượng thanh của Việt tộc.

    Trước đây, một số sử gia tuy không cho rằng người Việt ta là gốc Tàu nhưng chịu ảnh hưởng của Tàu trên nhiều phương diện nên cũng tán đồng luận điểm áp đặt của các nhà Nhân chủng cho rằng dân tộc ta thuộc giống Mông cổ ngành Phương Nam. Ngày nay, các nhà sử học Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam viết sử theo nghị quyết của Đảng Cộng Sản Việt Nam để nhường toàn bộ lãnh thổ của nước Xích Quy, Văn Lang xưa cũ cho đế quốc mới Trung Cộng. Bộ lịch sử Việt Nam do nhà nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam viết rằng nước Văn Lang ta chỉ mới hình thành hơn 600 năm TDL cho phù hợp với sử quan bành trướng Đại Hán xa xưa mà hiện nay là Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc anh em! Tập đoàn Việt gian Cộng sản, tội đồ của dân tộc đã sửa đổi lịch sử để bán nước phản bội lại công lao xương máu của tiền nhân bao đời dựng nước và giữ nước.

     Là người Việt Nam yêu nước, ai trong chúng ta cũng  ưu tư lo âu về hiểm họa phương Bắc, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc. Ngay từ thời Thương, đã xâm chiếm tiêu diệt nhà Hạ của tộc Việt rồi hết Chu, Tần đến Hán. Thời Hán Vũ  Đế đã đem quân xâm lược đánh chiếm thống trị các dân tộc khác để mở rộng lãnh thổ, thành lập một đế quốc Đại Hán hùng mạnh như đế quốc La Mã của phương Tây. Chính sách sử Trung Quốc đã ghi chép: “Dân tộc Trung Quốc là do các dân tộc Mông Cổ, Mãn Châu, Tạng, Hồi nhưng Hán tộc là

chủ thể” mà không dám nhắc đến tộc Việt vì người dân gọi là người Trung Quốc ở miền Đông và miền Nam gốc Việt cổ chiếm hơn nửa dân số Trung Quốc.

     Trong suốt dòng lịch sử khởi từ thời lập quốc đến ngày nay, chủ trương trước sau như một là bằng mọi giá phải tiêu diệt cho được tộc Việt vì cái gọi là văn hóa, văn minh Trung Quốc chính là văn hóa, văn minh Việt mà Hán tộc đã tiếp nhận rồi cải biến gọi là văn minh Trung Quốc. Thứ nữa, chính Hán tộc du mục từ thời tộc Thương đã xâm chiếm nhà Hạ của Vìệt tộc năm 1766 TDL cho tới thời Hán Vũ Đế đánh chiếm Nam Việt năm 111 TDL với 7 lần xâm lược, khiến tộc Việt phải rời bỏ phần lãnh thổ Trung Quốc hiện nay chạy xuống định cư tại phần lãnh thổ Việt Nam bây giờ. Hầu hết người Việt cổ trong các quốc gia Bách Việt đã bị thống trị, bị đồng hóa nhưng trải qua hàng ngàn năm, tuy phần nào có giống “Đồng” nhưng vẫn giữ bản sắc văn hóa truyền thống Việt, nên không bao giờ trở thành, “Hóa” thành người Trung Quốc được.

     Thưa quý vị và các bạn,

    Chính vì vậy, nên khi vừa ra khỏi trại tù, chúng tôi đã bắt tay vào việc tìm kiếm tài liệu, viết những trang sách đầu tiên về lịch sử Việt trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, bị theo dõi kiểm soát nghiêm ngặt, rình rập thường xuyên nên viết lách thật là khó khăn. Như một cơ duyên, khi tìm tòi nghiên cứu chúng tôi đã hết sức ngỡ ngàng của những công trình nghiên cứu của các nhà Trung Hoa học, các học giả quốc tế cùng với kết quả khoa học thuyết phục của Khảo cổ, Văn hóa khảo cổ, Khảo Tiền sử, huyết học nhất là khoa Đại dương học và khoa di truyền học DNA đã phục hồi sự thật lịch sử… mà chúng ta không thể ngờ được.

     Thật vậy tất cả những gì mà các sách sử cũ chép về nguồn gốc dân tộc cũng như cội nguồn văn hóa Việt là không đúng. Thời gian đã trả lại tất cả những gì của lịch sử cho lịch sử bị che phủ bởi lớp bụi của thời gian hàng ngàn năm và bởi ‎ ý đồ nham hiểm xảo quyệt của đế quốc Tàu Hán xưa và Trung Cộng, đế quốc mới của thời đại, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam.

     Các bạn trẻ thân mến,

    Cho đến ngày nay, chúng ta chưa có một nhận định rõ ràng về cội nguồn dân tộc vì hầu hết các sách sử cũ viết từ thế kỷ 19, 20 nên chưa cập nhật được những kết quả mới nhất của khoa học. Ngay cả bộ lịch sử Việt Nam của Viện Sử học nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam viết theo nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm mục đích tuyên truyền nên hết sức thiếu sót sai lầm. Điều này đã được Trần văn Giàu và nhà sử học Phan Huy Lê, Viện Trưởng Viện Sử học thú nhận là “Viết Sử theo nghị quyết của đảng thì lịch sử không còn là lịch sử nữa”. Sử gia Đào Duy Anh đã viết sử theo nghị quyết của Đảng Công sản nên sử gia đã phải cay đắng thốt lên rằng “Người ta biết tôi nhờ lịch sử và hậu thế lên án tôi cũng vì lịch sử …”.

     Chính vì vậy, hơn lúc nào hết một bộ Lịch sử Việt Nam được viết trên quan điểm dân tộc kết hợp với tri thức thời đại là một nhu cầu cấp thiết, hết sức cần thiết cho thế hệ trẻ Việt Nam có một sử quan chân chính, một nhận thức đúng đắn về lịch sử dân tộc. Từ đó, thế hệ trẻ Việt nam sẽ hiểu rõ để tự hào về nguồn gốc dân tộc và cội nguồn văn hóa Việt, hãnh diện với các chiến tích oanh liệt hào hùng của tiền nhân bao đời cùng với những danh tướng Việt Nam, các anh hùng vô danh đã tạo nên những kỳ tích có một không hai trong lịch sử Việt Nam và của cả nhân loại nữa.

     Chúng ta phải cùng nhau “Khơi Dòng Sử Việt” để tìm về hồn tính dân tộc Việt góp phần nâng cao dân trí do chính sách ngu dân, tuyên truyền lịch sử một chiều của Đảng Cộng sản Việt Nam với những sự kiện không có thật, bóp méo xuyên tạc và sửa đổi lịch sử để bảo vệ chế độ độc tài đảng trị. Vì vậy, hầu hết giới trẻ chán nản, không thích học lịch sử vì lịch sử dân tộc gắn liền với sử quan duy vật Mác Xít. Thế hệ trẻ không biết gì về những anh hùng dân tộc đã đứng lên chống kẻ thù “Đại Hán xâm lược xưa và Đế quốc mới Trung Cộng” ngày nay mà chỉ học về những “Dũng sĩ Diệt Mỹ” không có thật như một Lê văn Tám, một Võ Thị Sáu… Chúng ta thật sự đau lòng khi sách sử viết rằng Hai Bà Trưng đánh đuổi quân thù xâm lược mà không dám viết rõ ra là quân thù Tàu Hán, Trung Quốc xâm lược …

     Gần đây, tập đoàn Việt gian Cộng sản còn quyết định hủy bỏ thi môn lịch sử Việt Nam, đồng thời bắt các em học sinh từ cấp 1 đến cấp 3 phải học tiếng Trung Quốc. Đây chính là chủ trương của tập đoàn Việt gian Cộng sản muốn người dân chán ghét lịch sử, không biết rõ lịch sử hào hùng chống Trung Quốc xâm lược nên theo thời gian, lịch sử dân tộc sẽ mai một, thế hệ trẻ Việt Nam không có niềm tự hào dân tộc nên không còn lòng yêu nước để đế quốc mới Trung Cộng dễ dàng “Hán hóa” dân tộc Việt…

     Thâm độc hơn nữa là một lối chữ mới, viết theo kiểu mới gọi là cải tiến tiếng Việt để xóa bỏ lối chữ Quốc ngữ a,b,c của chúng ta. Vấn đề đặt ra là nếu không có gì thay đổi thì 5, 10 năm nữa con em chúng ta sẽ phát âm lơ lớ giọng hò hét của Ô Mã Nhi trên sông Bạch Đằng và không biết đọc chữ Quốc ngữ nữa thì ôi thôi, kẻ thù truyền kiếp của chúng ta với sự tiếp tay của những tên Thái Thú xác Việt hồn Tàu phù đã triệt tiêu toàn bộ nền văn hóa Việt ngàn đời của chúng ta!

     Chúng tôi có bổn phận phải viết quyển sách này để khơi dòng lịch sử, nói với các bạn trẻ về những sự thật lịch sử mà trước đây chúng ta không hề biết. Như một thiên duyên, đến cuối thế kỷ thứ 20, với kết quả của các công trình khoa học đã phục hồi sự thật lịch sử về đại tộc Bách Việt thuộc đại chủng Hoabinhoid đã mở ra một vận hội mới cho dân tộc Việt Nam. Chúng ta sẽ cùng nhau tìm về cội nguồn văn hóa, nguồn gốc dân tộc dưới ánh sáng của khoa học…

     Chúng tôi gọi là thiên duyên của đại tộc Bách Việt vì tất cả đã giải đáp sáng tỏ những ưu tư của biết bao thế hệ, biết bao con dân đất Việt thao thức tìm ra câu trả lời cho vấn nan lịch sử từ xa xưa cho đến ngày nay. Đây cũng là điều mà cách đây hơn nửa thế kỷ đã hằn sâu trong tâm trí, đeo đẳng gậm nhấm tâm hồn từ khi mới bước chân lên ngưỡng cửa Đại học, ám ảnh suốt thời gian tù đày hơn hai mươi năm cho tới khi tìm ra giải đáp thỏa đáng mới cảm thấy mãn nguyện vì đã chu toàn phần nào bổn phận của một con dân đất Việt tìm về nguồn cội của mình.

     Khi nghiên cứu lịch sử Việt, vấn đề đầu tiên phải đặt ra là nghiên cứu các nguồn sử liệu. Từ trước đến nay, giới nghiên cứu thường tìm đọc những sách sử trong nguồn thư tịch cổ và phải là nguồn sách sử chính thống của Hán tộc mà họ gọi là “Chính sử” của Trung Quốc. Trên thực tế những bộ sử gọi là chính sử do Sử quan các triều đại viết thì phải biện minh cho chính sách xâm lược thống trị của “Đại Hán xâm lược bành trướng” thì họ phải viết là khai hóa man di mọi rợ… thì làm sao mà trung thực được! Vì thế, ngoài phần chính sử, chúng tôi phải tìm đọc những sách gọi là “Ngoại Thư” là những sách sử không do triều đình biên soạn mà là sách sử do những người Trung Quốc gốc Việt cổ viết để lại cho hậu thế Việt Nam…

     Tiền nhân Việt cổ đã để lại những nguồn sách sử mà chính sử Trung Quốc gọi là Ngoại Thư như Giao Châu Ký, Quảng Châu Ký, Liêu Nghi truyện, Quân Quốc Lợi Bệnh Thư và nhất là Bách Việt Tiên Hiền Chí của Trinh Bá Âu Đại Nhậm đời Minh… Ngoài ra phải tìm đọc những truyền kỳ lịch sử truyền khẩu từ thế hệ này sang thế hệ khác như Lĩnh Nam Trích Quái, Việt Điện U Linh, Thiên  Nam Ngữ  Lục… là những bộ Thông sử Dân gian viết mang tính trung thực đáng tin cậy hơn những gì mà chính sử do các sử quan ”Đại Hán” viết.

     Chúng ta cũng phải tìm về nguồn cội dân tộc qua truyền thuyết khởi nguyên của dân tộc vì đó là bức thông điệp hàng ngàn năm lịch sử của tiền nhân gửi gấm cho chúng ta. Mỗi dân tộc đều có những truyền kỳ lịch sử được thần thoại hóa thể hiện lòng tự hào dân tộc mang tính sử thi của mình. Thật vậy, huyền thoại Rồng Tiên về ngọn nguồn huyết thống Việt tuy đượm vẻ huyền hoặc nhưng lại tràn đầy tính hiện thực, thấm đậm nét nhân văn của truyền thống nhân đạo Việt Nam. Huyền sử con Rồng cháu Tiên là niềm tự hào của nòi giống Việt.

     Chúng ta phải lắng nghe tiếng nói từ tâm thức sâu thẳm không cùng của bức thông điệp hàng nghìn năm lịch sử về Huyền thoại Rồng Tiên khởi nguyên của dân tộc Việt. Để rồi, chợt một lúc nào đó chúng ta cảm nhận được cái “Tiềm thức Cộng thông” từ muôn đời vang vọng về bức thông điệp vô ngôn của tiền nhân thời lập quốc, thế là bức thông điệp lịch sử từ ngàn năm được giải mã để chúng ta quên đi lối suy nghĩ duy lý thực dụng của đời thường. Cuối cùng tất cả phải được kiểm chứng qua những kết quả của khoa học từ dân tộc học, ngôn ngữ học, khảo cổ, huyết học, khảo Tiền sử, Văn hóa khảo cổ, Di truyền học và đại dương học để chúng ta có một nhận định thống quán xuyên suốt tiến trình lịch sử của dân tộc Việt.

     Thưa quý vị và các bạn,

     Chúng ta với thái độ khiêm cung cầu tiến phải tôn trọng những sử gia tiền bối, những nhà nhân chủng như những cây đại thụ, thế nhưng không phải cứ nhắm mắt bước theo lối mòn xưa cũ mà không dám mạnh dạn tìm ra một cái nhìn khác, đưa ra một quan niệm mới với những nhận định khoa học hơn, hợp lý và thuyết phục hơn. Nhân loại bước sang thiên niên kỷ thứ ba với những tiến bộ vượt bậc về khoa học cùng với các công trình nghiên cứu được kiểm chứng bởi khoa khảo cổ đã phục hồi sự thật lịch sử bị sửa đổi xuyên tạc bóp méo của Đế quốc Tàu Hán xưa và đế quốc mới Trung Cộng ngày nay đã mấy ngàn năm qua.

     Thưa quý‎ vị và các bạn,

       Lịch sử Việt là lịch sử của sự thăng trầm từ thời lập quốc cho đến ngày nay. Dân tộc Việt đã phải chịu đựng gần một ngàn năm đô hộ của giặc Tàu với bao cuộc xâm lược thống trị đô hộ dân tộc chúng ta. Bộ Bách Khoa Toàn Thư của thế giới với ban biên tập là những học giả, các nhà nghiên cứu trong đó học giả Phillipe Devilère đã đặt vấn đề “Lịch sử Việt là gì?”, thế rồi Phillipe Devilière đã tự trả lời như sau:

Trải qua hơn bốn nghìn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam đã chứng tỏ có một sức sống phi thường. Suốt mười thế kỷ bị Trung Quốc thôn tính, người Việt Nam vẫn giữ nguyên bản sắc dân tộc và liên tiếp nổi dậy đánh đuổi kẻ xâm lược ỷ vào sức mạnh tưởng có thể khuất phục được dân tôc này. 

     Lịch sử đã đặt lòng tin vào dân tộc ấy và họ đã chứng minh khả năng đề kháng, óc sáng tạo, tính kiên trì và sự thích ứng với mọi cuộc chiến gian khổ nhất, khó khăn nhất và kể cả không cân sức nhất…

     Người Việt Nam tự hào với quá khứ của mình, tôn vinh những bậc vĩ nhân đã tô điểm rạng rỡ quá khứ đó và quá khứ dù xa xăm hay gần đây luôn luôn có mặt khắp nơi trên đất Việt Nam, tác động mạnh mẽ vào hiện tại và tương lai”.

    Sử gia G. Buttinger tác giả quyển “The Small Dragon” đã hết sức trân trọng ý chí sức mạnh tinh thần của dân tộc Việt nhưng vẫn băn khoăn thắc mắc tại sao một dân tộc nhỏ bé vẫn vùng lên giành lại độc lập dân tộc sau đêm dài nô lệ cả ngàn năm. G. Buttinger viết:  “Một việc phi thường mà không một sử gia nào có thể giải thích được một cách thỏa đáng, mặc dầu đã nghiên cứu rất nhiều là tại sao sau hơn 1 ngàn năm bị đô hộ, dân tộc Việt Nam vẫn không bị đồng hóa và Việt Nam vẫn giành lại nền độc lập dân tộc”.[1]

     Nếu có một nhận định đúng đắn, toàn diện xuyên suốt dòng lịch sử Việt kể từ thời lập quốc cho đến ngày nay, tộc người du mục phương Bắc đã xâm lược tất cả là 26 lần và 9 lần thống trị nước ta mới thấy được sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam. Trong hàng ngàn năm phải đương đầu với 1 kẻ thù truyền kiếp hiếu chiến hiếu sát với chủ trương trước sau như một là xâm lược bành trướng, thống trị và đồng hóa dân tộc đã hun đúc một ý chí kiên cường, một tinh thần bất khuất, chiến đấu để sống còn. Dân tộc Việt đã phải đương đầu với kẻ thù truyền kiếp qua hàng ngàn năm lịch sử, chính ý chí sống còn, bản năng sinh tồn đã tập đại thành một gene di truyền “Yêu nước Thương Nòi”, một tinh thần dân tộc cao độ với sức đề kháng vô biên chiến đấu và chiến thắng để dân tộc Việt tồn tại mãi tới ngày nay.

    Nói theo sử gia thời danh Arnold Toynbee thì: “Nếu thiếu những sự thách thức tức là thiếu yêu cầu bức bách đòi hỏi phải biết vận dụng được một cách vượt bậc khả năng xoay chuyển tình thế thì không có điều kiện để một cộng đồng người thể hiện được sức mạnh và sự sáng tạo của mình.

     Chính sự đáp ứng thích hợp trước những thách thức, sự vận dụng một cách vượt bậc khả năng xoay chuyển tình thế, đã đưa tới những thành tựu văn hoá lớn tạo nên bản lĩnh của các dân tộc và có thể nói lịch sử hình thành một nền văn minh lớn, không bao giờ diễn ra trên một con đường bằng phẳng với những bước đi bình thản…”.

     Trong lịch sử nhân loại, có lẽ không một dân tộc nào mà chịu đựng thử thách gian nan khốn khó hơn dân tộc Việt. Lịch sử cũng đã chứng minh dân tộc ta đáp ứng được những yêu cầu bức bách, sự thách thức của từng thời đại để Việt Nam là một trong những nền văn minh cổ của nhân loại còn tồn tại mãi đến ngày nay. Lịch sử cũng đã chứng minh rằng, trong bất cứ hoàn cảnh nghiệt ngã nào dân tộc chúng ta cũng sản sinh ra những anh hùng dân tộc. Danh nhân Văn hóa Nguyễn Trãi đã tuyên xưng trong Bình Ngô Đại Cáo:

“Chỉ có nước Đại Việt ta từ trước,                                                        

Mới có nền Văn hiến ngàn năm…                                              

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau…                                                         

Song Hào kiệt đời nào cũng có…

Từ Triệu, Đinh Lê Lý Trần…                                                               

cùng Hán Đường, Tống Nguyên Minh Thanh…                                   

Mỗi bên hùng cứ một phương…

    Trên thế giới chưa có một dân tộc nào trải qua những thời kỳ bi thảm như dân tộc Việt Nam với gần một ngàn năm nô lệ, thế nhưng cả nhân loại cũng phải sửng sốt kinh ngạc vì sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt đã vùng lên giành lại độc lập sau gần 10 thế kỷ bị thống trị. Bản Tuyên ngôn Độc lập của dân tộc Việt đã được viết lên bởi chính xương máu của biết bao con người, biết bao thế hệ mới có được Việt Nam hôm nay. Chúng ta những thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau xin cúi đầu ngưỡng phục các bậc tiền nhân, các anh hùng dân tộc, những danh tướng nước Việt và biết bao anh hùng vô danh cùng hàng hàng lớp lớp con dân nước Việt đã hy sinh xương máu để Tổ Quốc Việt Nam trường tồn, Dân tộc Việt Nam bất diệt.

     Nhìn lại lịch sử, chúng ta có quyền hãnh diện về nguồn cội “Con Rồng Cháu Tiên”, cũng như tự hào về những anh hùng dân tộc, những đại Danh Tướng không những của Việt Nam mà còn là của nhân loại. Chúng ta có quyền tin tưởng hãnh tiến hướng về tương lai, thiên niên kỷ thứ III của nhân loại. Tuy nhiên chúng ta không thể đứng yên mà trông chờ vào cái gọi là “Định mệnh lịch sử” mà nên nhớ rằng, Lịch sử hôm nay là sự đóng góp của toàn dân trong những ngày qua và sự đóng góp của toàn thể đồng bào trong nước và hải ngoại ngày nay sẽ là lịch sử Việt Nam ở ngày mai.

     Tri ân tiền nhân chưa đủ mà chúng ta phải học tập, noi gương các danh nhân anh hùng khai sáng văn hoá, các anh hùng dân tộc của thời xa xưa thấm đậm trong tâm thức Việt để rồi dân tộc sẽ sản sinh ra những anh hùng của một ngày mai. Chính vì vậy, có thể nói lịch sử là ngọn nguồn của lòng yêu nước, chính lịch sử quá khứ hào hùng của một dân tộc sẽ là tương lai xán lạn huy hoàng của dân tộc đó. Chúng ta có quyền hãnh diện tự hào, tin tưởng vào một  Việt Nam Ngày Mai rạng rỡ của dân tộc chúng ta… 

     Chúng tôi quan niệm rằng yêu nước tất phải trân trọng tất cả những thăng trầm hưng phế của dòng vận động lịch sử mà biết bao thế hệ đã vun trồng bằng máu và nước mắt để viết lên những trang sử bất khuất hào hùng. Đồng thời phải học biết về lịch sử để hiểu rõ hơn ý nghĩa tuyệt vời của huyền thoại Rồng tiên, hiểu rõ về nguồn cội dân tộc, hiểu rõ hơn bản sắc văn hóa và truyền thống cao đẹp của một dân tộc có gần 5 ngàn năm văn hiến.

     Lịch sử là ngọn nguồn của lòng yêu nước, chính lịch sử quá khứ hào hùng của một dân tộc sẽ là tương lai xán lạn huy hoàng của dân tộc đó. Nói theo sử gia thời danh Arnol Toynbee thì:

     “Nếu thiếu những sự thách thức tức là thiếu yêu cầu bức bách đòi hỏi phải biết vận dụng được một cách vượt bậc khả năng xoay chuyển tình thế thì không có điều kiện để một cộng đồng người thể hiện được sức mạnh và sự sáng tạo của mình.

    Chính sự đáp ứng thích hợp trước những thách thức, sự vận dụng một cách vượt bậc khả năng xoay chuyển tình thế, đã đưa tới những thành tựu văn hoá lớn tạo nên bản lĩnh của các dân tộc và có thể nói lịch sử hình thành một nền văn minh lớn, không bao giờ diễn ra trên một con đường bằng phẳng với những bước đi bình thản…”.

     Trong lịch sử nhân loại, có lẽ không một dân tộc nào mà chịu đựng thử thách gian nan khốn khó hơn dân tộc Việt. Lịch sử cũng đã chứng minh dân tộc ta đáp ứng được những yêu cầu bức bách, sự thách thức của từng thời đại để Việt Nam là một trong những nền văn minh cổ của nhân loại còn tồn tại mãi đến ngày nay.

     Chúng ta có quyền tự hào và tin tưởng hãnh tiến hướng về tương lai trước ngưỡng cửa của thiên niên kỷ thứ III. Tuy nhiên chúng ta không thể đứng yên mà trông chờ vào cái gọi là “Định mệnh lịch sử” mà nên nhớ rằng, Lịch sử hôm nay là chính trị của những ngày qua và  chính trị ngày nay sẽ là lịch sử ở ngày mai.

     Lịch sử là cuộc trưng cầu dân ý mỗi ngày của một dân tộc thế nên chính chúng ta, mỗi ngày đang góp phần lịch sử vào tương lai của dân tộc chúng ta. Trong ý thức đó, chúng tôi xin mời quý vị và các bạn trẻ yêu nước, chúng ta cùng tìm về cội nguồn Việt tộc, về Việt Nam thời lập quốc từ truyền thuyết đến hiện thực lịch sử Việt Nam.[2]

Việt Nam, Mùa giỗ Tổ 4898 Việt Lịch (DL 2019)

PHẠM TRẦN ANH.


[1] G Buttinger: The Small Dragon 1958.

3. Trong sách này, chúng tôi dùng chữ dân gian thường gọi là Tầu thay vì Trung Quốc.  Chính sách sử Trung Quốc đã viết là dân tộc Trung Quốc là do các tộc người Mông, Mãn, Tạng, Hồi và Hán là chủ thể. Các nhà viết sử cũng như người Tầu tự nhận họ là người Hán (Hán nhân) vì thời đại triều Hán là thời lãnh thổ Trung Quốc mở rộng do các cuộc xâm chiếm đất đai của các dân tộc khác nên chúng tôi gọi là Hán tộc để chỉ một tộc người du mục xâm lược. Đứng trên quan điểm dân tộc, chúng tôi chỉ dùng chữ “Nhà” thân thương cho các triều đại của nước ta như nhà Ngô, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần … còn Hán tộc thì chúng tôi dùng chữ “Triều” (đại) như triều Thương, triều Chu, triều Hán. Thứ nữa, lấy năm thứ nhất Dương lịch làm điểm mốc lịch sử cho thật chính xác thay vì chữ Công nguyên như vẫn dùng sai lầm từ trước đến nay.

You may also like...