LỘ TRÌNH THIÊN CƯ                                                                    CỦA ĐẠI CHỦNG HOABINHOID

        Nhân loại đã bước vào thiên niên kỷ thứ ba với những tiến bộ vượt bực trong nhiều lĩnh vực, nhất là khoa Di truyền học với “Phân tích chủng loại di truyền DNA” đã giải đáp thỏa đáng rất nhiều vấn nan khúc mắc từ bao đời nay. Đặc biệt, khoa Đại Dương Học và Di Truyền Học đã giúp người Việt Nam chúng ta tìm lại cội nguồn phát tích dân tộc một cách đầy đủ nhất, khoa học nhất và thuyết phục nhất.  Sự tiến bộ vượt bậc của khoa học với phương pháp định tuổi bởi C14 đã giúp các nhà khảo cổ xác định niên đại của di vật cổ đóng góp cho sự tìm hiểu về nền văn minh của một dân tộc cũng như lịch sử tiến hóa của một chủng tộc. Công trình nghiên cứu của các học giả thời danh như W.G. Solheim, Joseph Needham, Stephen Oppenheimer và đặc biệt là khoa Di Truyền Học và Kỹ Thuật Sinh Học hiện đại đã khám phá được bộ “Genome Mã Di Truyền của loài Người”, từ đó biết rõ nguồn gốc của một dân tộc, cũng như lộ trình thiên di của nhân loại.

       Theo kết quả của ngành phân tử di truyền thì cách ngày nay khoảng 70 ngàn năm, người Tiền sử từ châu Phi theo bờ biển Nam Á tới định cư ở lưu vực sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam, sông Việt (Việt Giang sau Tầu Hán đổi tên là Tây Giang) ở Quảng Tây và Quảng Đông.[1] Điều kiện thổ nhưỡng nơi sinh tụ mới cùng với thời gian tiến hóa lâu dài hàng chục ngàn năm, hình thể và màu da của họ dần biến đổi từ người Tiền sử => người đứng thẳng homo erectus => Homo habilis => Homo sapiens sapiens cuối cùng trở thành người Hoabinhoid mà chúng tôi gọi là người Tiền Việt (Pre-Vietnamese). Những người khôn ngoan từ Châu Phi tới định cư ở môi trường mới, họ bắt đầu thuần hóa các cây quả và thú vật, kết hợp đời sống đánh cá với hái lượm trong rừng, trồng các loại cây như cây đậu ở gần nơi cư trú trong hang động. Giới khảo cổ đã tìm được bộ xương người Hòa Bình Hoabinhoid có niên đại khảo cổ 67.000 năm ở Lưu Giang Quảng Tây.

       Mỗi lần biển tiến người Hòa Bình = Tiền Việt phải di cư lên miền cao tới tận cao nguyên Tibetan rồi khi nước biển rút dần thì người tiền Việt lại di chuyển xuống định cư ở vùng đồng bằng lưu vực các con sông lớn. Những người Việt cổ này thành lập các nền văn hóa Hòa Bình, văn hóa Lĩnh Nam, văn hóa Giang Nam, văn hóa Hà Mỗ Độ, Bán Pha Giả Hồ, Lão Ngưu Pha, Lương Chử…  của các quốc gia Bách Việt Hundred-Viets (Bai Yue) trên khắp lãnh thổ Trung Quốc.[2]

       Ngày nay, nền văn minh Hòa Bình được xem là cổ nhất của nhân loại và cư dân Hòa Bình Hoabinhoid tức người Tiền Việt => Người Việt cổ (Pre-Vietnamese =>Ancient Vietnamese). Khoa Cổ nhân học nghiên cứu gần 100 sọ cổ đã tìm thấy từ trước đến nay ở Việt Nam chứng minh người cổ đã sinh sống ở lưu vực sông Hồng từ rất lâu. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều dụng cụ bằng đá đẽo thô sơ để cắt, nạo, chặt, dùi ở núi Đọ Thanh Hoá cùng với xương và răng người cổ thuộc thời kỳ đồ đá cũ ở Yên Bái, Ninh Bình, Quảng Bình. Sang thời đại đá mới, cư dân đã biết canh tác và chăn nuôi gia súc và cư trú trong những ngôi nhà bằng tre, gỗ chứ không còn ở trong hang đá nữa.[3]

        Kết quả của khoa Tiền sử học nghiên cứu chỉ số sọ của người cổ đến khoa Nhân chủng học phân tử của Di truyền học cùng với công trình nghiên cứu văn hóa khảo cổ xác định nơi thuần hóa lúa nước đầu tiên ở lưu vực sông Hồng, sông Việt (Việt Giang), sông Dương Tử của nền văn hóa Hòa Bình.  Đặc biệt, công trình nghiên cứu nạn biển tiến của khoa Đại Dương học cũng như thuyết Greenberg về tiếng vọng của ngôn ngữ nguyên thủy đã cho chúng ta thấy rõ lộ trình thiên cư của người cổ Đông Nam Á chính là tiến trình lịch sử của Đại tộc Bách Việt như sau:

LỘ TRÌNH THIÊN CƯ                                                                                                                              CỦA NGƯỜI TIỀN VIỆT (HOABINHIAN=PREVIETNAMESE)

        Người Tiền sử từ Phi Châu đến định cư ở Hòa Bình vùng Đông Nam Á trải qua một thời gian tiến hóa trở thành người khôn ngoan Homo Sapiens sapiens rồi trở thành người Hòa Bình mà chúng tôi gọi là người Tiền Việt. Những người Tiền Việt khởi nguyên từ vùng Đông Nam Á, giữa lưu vực 3 con sông là sông Dương Tử, sông Hồng và sông Cửu Long nhưng tập trung chính ở vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã và sông Việt ở Quảng Tâyđã thành hình nền văn hóa Hòa Bình cho đến ngày nay được xem là cổ nhất của nhân loại.[4] Kết quả Di truyền học đã xác định lộ trình thiên cư của Halogroup O-M175 tập trung nhiều nhất ở vùng Bắc Thái Lan, Bắc Việt Nam và phía Nam sông Dương Tử.

        Theo khoa Đại dương học thì trong lịch sử nhân loại đã xảy ra 20 lần biển tiến, mỗi lần nước biển dâng lên thì cư dân Hòa Bình phải tiến lên vùng cao nguyên Tibetan và cao nguyên Thái Sơn. Khi nước biển rút thì những người Việt cổ lại di chuyển xuống vùng đồng bằng lưu vực các con sông lớn Dương Tử, Hoàng Hà, Cửu Long và sông Hồng để thành hình các nền văn hóa cổ đại.  Lịch sử cứ tái diễn như vậy mỗi lần biển tiến nên theo dấu khoa Văn hóa khảo cổ, cho đến ngày nay chúng ta ghi nhận nền văn hóa Hòa Bình, nền Văn Hóa Lĩnh Nam (C14 = 19.910±180BP), nền văn hóa Giang Nam – Hồ Nam (C14 = 10.870±210BP), nền văn hóa Bắc Sơn, nền văn hóa SaKai ở Thái Lan, nền văn hóa Bán Pha Giả Hồ, nền văn hóa Hà Mỗ Độ, nền văn hóa Lão Ngưu Pha, nền văn hóa Đại Vấn Khẩu, nền văn hóa Long Sơn – Ngưỡng Thiều, nền văn hóa Lương Chử, nền văn hóa Tam Tinh Đôi Ba Thục, nền văn hóa Thạch Gia Hà, nền văn hóa Óc Eo, nền văn hóa Phùng Nguyên, nền văn hóa Nguyên Mưu Vân Nam, nền văn hóa Đông Sơn, nền văn hóa Sa Huỳnh…

        Chính những kết quả của các công trình khảo cổ cùng với kết quả của những công trình khoa học về di truyền và đặc biệt, khoa Đại dương học với nạn biển tiến đã giải đáp biết bao nghi vấn tự ngàn xưa. Thật vậy, trước khi chúng ta biết về nạn biển tiến thì tri thức nhân loại còn hạn chế với những hiểu biết mù mờ về trái đất nơi chúng ta đang sinh sống. Bây giờ, chúng ta mới hiểu rõ tại sao trong kho tàng cổ tích dân gian của chúng ta có truyện Sơn Tinh Thủy Tinh và nhân loại mới hiểu rõ về sự tích có thật của nạn Đại Hồng Thủy trong Thánh Kinh. Việc tìm thấy Kim Tự Tháp Yonaguni trên thềm lục địa Nanhailand và thềm lục địa Sundaland chìm dưới lòng đại dương cũng đã giải đáp phần nào về huyền tích lục địa Atlantic biến mất của thời cổ đại xa xưa.

       Trước khi xảy ra các đợt biển tiến, mực nước biển thấp nên Đông Nam Á lục địa lúc đó còn nối liền với Đông Nam Á hải đảo, đồng bằng châu thổ sông Hồng trải dài tới tận phía Đông đảo Hải Nam và miền Nam Việt Nam hiện nay được gọi là Nanhailand và Cam Bốt còn nối liền với Borneo, Sumatra, Java, Borneo, Bali và vịnh Thái Lan còn là đồng bằng mênh mông gọi là Sundaland. Trong thời kỳ băng hà Pleistocene cách đây từ 20.000 đến 18.000 năm, thềm Sunda còn ở trên mặt nước biển, họ thường xuyên liên lạc với cư dân khác ở Đông Nam Á hải đảọ để sinh tồn tiến hóa.

        Lần biển tiến gầy đây, cách ngày nay khoảng 14 ngàn năm mực nước biển dần dần dâng lên cao khoảng 80m suốt 300 năm đã nhận chìm gần hết thềm lục địa Sundaland. Kế tiếp là nạn biển tiến cách nay 11.500 năm và lần biển tiến sau cùng cách ngày nay khoảng 8.000 năm lại xảy ra hiện tượng biển tiến, mực nước biển dâng lên tới đỉnh Việt Trì, tràn ngập vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Cửu Long khiến cư dân Hoabinhian tức Pre-Vietnamese (Tiền Việt) ở lục địa Nanhailand lưu vực sông Hồng và Sundaland lưu vực sông Cửu Long một lần nữa phải rời bỏ địa bàn cư trú đi lên vùng cao.

       Khoa Đại Dương học và Khảo Cổ học đã chứng minh rằng người cổ Hoà Bình Hoabinhian do nạn biển tiến gần đây nhất cách ngày nay khoảng 8.000 năm đã tiến lên vùng núi cao Hòa Bình, Bắc Sơn và ngược lên hướng Tây Bắc tới chân cao nguyên Tây Tạng Tibean và Đông Bắc vùng Ngũ Lĩnh. Khi mực nước biển dần dần dâng lên cao, cư dân khắp các nơi lần lượt dồn về vùng cao nên đã hình thành nền văn hóa Hòa Bình, một nền văn hóa cổ đại tinh hoa của nhân loại.[5] Mực nước dâng cao dần khiến cư dân Tiền Việt Pre-Vietnamese (Hoabinhian) ở lưu vực 2 con sông lớn là sông Hồng và sông Cửu Long phải thiên cư mang theo 25 đặc trưng của văn hoá Hoà Bình đi lên hướng Tây Bắc, miền cao Vân Nam Quý Châu rồi tới cao nguyên Tây Tạng Tibetan giữa 2 dãy núi Hi Mã Lạp sơn và Côn Luân. Khoa Khảo tiền sử cũng cho biết một nhánh khác tiến theo hướng Đông Bắc lên định cư ở Phúc Kiến, Chiết Giang tiến lên cao nguyên Thái Sơn ở bán đảo Sơn Đông Trung Quốc bây giờ. 

       Cách đây 5.500 năm, khi mực nước biển rút dần thì cư dân Hoabinhian= Pre-Vietnamese) này lại từ vùng cao nguyên Tibetan khô cằn, khí hậu lục địa lạnh không thích hợp cho điều kiện sinh sống đã di chuyển dần xuống phương Nam định cư ở vùng đồng bằng lưu vực sông Hoàng Hà Dương Tử… Giới khảo cổ mới tìm thấy Kim Tự Tháp Yonaguni của người Việt cổ ở phía Bắc Đài Loan, khi biển tiến Kim tự tháp Yonaguni chìm sâu dưới đáy biển Yonaguni (thuộc quần đảo Okinawa, Nhật – gần Đài Loan). Theo kết quả đo chỉ số sọ của khoa Khảo Tiền Sử gọi chủng người này là Indonesian mà chúng tôi gọi là Pre-Vietnamese đã chia ra làm 3 đợt lần lượt di chuyển xuống vùng đồng bằng:

Vào thời kỳ Băng Giá cuối (the last Ice Age – Pleistocene), khoảng 15000-18000 năm trước, Sundaland cao hơn mặt biển khoảng 20 m (meters) và mực nước biển thời đó thấp hơn mực nước ngày nay khoảng 120 m. Như vậy là Sundaland thấp hơn mực nước biển ngày nay khoảng 100 m. Khi kỳ Băng Giá kết thúc, băng giá tan, nước biển dâng cao xảy ra nạn “biển tiến” phủ ngập Sundaland và các vùng thềm lục địa khắp miền Đông Á! (Stephen Oppenheimer: “Eden in the East: the Drowned Continent of Southeast Asia”, 1998)

Cư dân Đông Nam Á Hải đảo và Đông Nam Á lục địa tiến lên vùng cao để tránh nạn biển tiến.

I. PRE-VIETNAMESE DI CƯ XUỐNG BA THỤC =>             BÁCH VIỆT (SOUTH HUNDRED-VIETS)

        Theo khoa Đại Dương học thì lần biển tiến gần đây nhất cách ngày nay 8 ngàn năm và nước biển bắt đầu rút cách ngày nay khoảng  5.500 năm, khi nước biển rút dần thì một nhánh Indonesian mà chúng tôi gọi là Hoabinhian (Pre-Vietnamese) = > Ancient Vietnamese tiến dọc theo triền sông Dương Tử xuống vùng đất đỏ Xích Quy ở lòng chảo Dạ Lang Ba Thục sau gọi là Bồn địa Tứ Xuyên. Các nhà Tiền Sử học đã đo chỉ số sọ và vẽ được lộ trình di chuyển của Hoabinhian => Pre-Vietnamese => Ancient Vietnamese => Hundred-Viets (Bách Việt = Bai-Yue) này. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với niên đại trong cổ sử Trung Quốc ghi rằng họ Thần Nông làm vua từ năm 3.220 TDL đến năm 3.080 TDL.

        Truyền kỳ dân gian về thuở khai thiên lập địa có ông Bàn Cổ tạo dựng trời đất, kế tiếp là thời lịch sử cổ đại với sự tiến hóa từ người Tiền Sử tới người khôn ngoan. Thời kỳ này nhân loại đã phát minh ra lửa để nướng chín thứ ăn đưa loài người nguyên thủy ra khỏi thời kỳ mông muội hoang dã, ăn lông ở lỗ thuở ban sơ. Đến thời Phục Hy mà cổ sử gọi là Phục Hy Thị (tộc, họ) truyền 15 đời dài 1260 năm từ 4.480 năm đến 3.220 năm TDL. Phục Hy dạy dân săn thú, đánh bắt cá bằng lưới, dùng bếp lửa để nấu chín thức ăn nên Phục Hy còn được gọi là Bào Hy. Tương truyền Phục Hy đã tìm ra dịch lý âm dương, tiết điệu căn cơ của vũ trụ muôn loài muôn vật, là quy luật thường hằng bất biến.

        Theo truyền thuyết thì Đế Viêm Thần Nông họ Khương, làm vua thay Phục Hy xưng là Thần Nông. Sách sử gọi là Đế Viêm vì Thần Nông lấy đức hỏa để làm vua. Theo Từ Nguyên Tự Điển của Trung Hoa thì Thần Nông là người đầu tiên phát minh ra lưỡi cày, chuôi cày. Thần Nông dạy cho dân cách làm ruộng khai mở nghề nông, dạy dân lập chợ trao đổi hàng hóa thực phẩm. Thần Nông cũng là người đầu tiên vào rừng hái các lá cây, nếm các thứ cây cỏ tìm vị thuốc trị bệnh cho dân nên Thần Nông được dân gian tôn thờ là ông Tổ của nghề nông, nghề thuốc và thương nghiệp. Họ Thần Nông truyền được 8 đời từ 3.220 đến 2700 năm, tổng cộng 520 năm TDL.  Sách cổ Trung Hoa chép Đế Viêm Thần Nông từ Tây Bắc xuống lập nước ở phương Nam, đóng đô ở Trần về sau dời đô về Khúc Phụ nước Lỗ sau này.

        Các nguồn sử sách cổ đối chiếu với truyền kỳ dân gian cho biết Quân Trưởng Thần Nông lãnh đạo Bách Việt Hundred-Viets từ nôi sinh tụ vùng cao nguyên Tây Tạng Tibetan về đồng bằng Đông Nam để định cư khai khẩn đất đai. Theo cổ sử thì địa bàn định cư đầu tiên ở nước Trần sau này mà địa giới bao gồm các tỉnh An Huy, Giang Tô và vùng phía Bắc sông Hoài. Thời kỳ này lãnh đạo tộc Việt được gọi là Quân Trưởng nên Sử Trung Quốc chép “Người Việt gọi vua là Quân, gọi cha là Bố”.  

        Thần Nông truyền được 8 đời, đến đời Đế Minh là cháu 3 đời của Thần Nông tức đời thứ 5 thì dòng Thần Nông có mặt cả ở miền Bắc Trung Quốc (Hoa Bắc) và miền Nam Trung Quốc (Hoa Nam). Vì thế truyền thuyết khởi nguyên dân tộc mới kể Đế Minh truyền ngôi cho Đế Nghi làm vua phương Bắc, phong Lộc Tục làm vua phương Nam lên ngôi lấy hiệu là Kinh Dương Vương. Sách sử sau viết là vua nhưng trên thực tế lúc đó chỉ là Quân Trưởng thủ lĩnh của vùng châu Kinh và châu Dương mà thôi.

       Truyền kỳ dân gian của người Trung Quốc gốc Việt cổ phổ biến rộng rãi dọc con đường thiên cư của Đế Viêm từ vùng lũng Tây, lòng chảo Dạ Lang xuống Ba Thục sau gọi là Bồn địa Tứ Xuyên và theo triền sông Nguồn xuống tới Hồ Bắc rồi tiến lên miền sông Hoài và núi Thái Sơn Sơn Đông. Dân gian vùng Tứ Xuyên vẫn vẫn còn truyền khẩu câu truyện Thần Nông qua đời vì nếm phải cỏ độc trên đường đi tìm thuốc trị bệnh cho dân. Soulie de Moraut trong tác phẩm “Lịch sử Trung Hoa” có ghi truyền thuyết Thần Nông sinh và mất ở gần hồ Động Đình. Trương Quang Trực (Kwang Chih Chang) trong tác phẩm Khảo về Cổ Trung Hoa kể chuyện đời Thần Nông có con chim đỏ tha bông lúa chín tai là những con số biểu thị của Viêm Việt.[6]

        Như vậy, niên đại lịch sử ghi chép trong sách sử cổ về Thần Nông (3220-2700 TDL) phù hợp với truyền thuyết khởi nguyên dân tộc về thời kỳ lập quốc của tộc Việt 2879 TDL. Kết quả của khoa Khảo Tiền sử đo chỉ số sọ cũng xác định cuộc thiên cư từ cao nguyên Tibetan xuống phương Nam cách nay khoảng 6 ngàn năm.[7] Sách sử cổ Trung Quốc ghi rõ về các nước Bách Việt (Bai-Yuè) ở khắp nơi trên lãnh thổ Trung Quốc bây giờ. Đặc biệt, kết quả khảo cổ ở di chỉ Hà Mẫu Độ cách ngày nay hơn 7 ngàn năm cùng với những kết quả khảo cổ khác của nền văn hóa Hòa Bình đã xác định tộc Việt là cư dân trồng lúa nước đầu tiên trên thế giới.[8] Di chỉ của cộng đồng Bách Việt với nghề trồng lúa nước, và nghề luyện kim đồng đã tìm thấy khắp nơi trên lãnh thổ Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan và vùng Đông Nam Á.

        Lịch sử tiến hóa và tiến trình lịch sử Việt đã được khoa Đại Dương học xác định qua những lần biển tiến rồi biển lui khiến cư dân Hoabinhian= Pre-Vietnamese phải thiên cư lên miền cao rồi khi nước rút thì Pre-Vietnamese lại di chuyển xuống vùngđồng bằng lưu vực các con sông lớn Dương Tử, Hoàng Hà, Cửu Long. Lịch sử cứ tái diễn như vậy nhiều lần và mỗi lần người Việt cổ để lại những di chỉ khảo cổ của các nền văn hóa cổ trên khắp lãnh thổ Trung Hoa…


[1] Stephen Oppeinheimer cho rằng người Tiền Sử định cư ở Đông Nam Á cách đây 85 ngàn năm.

[2] Trước đây, các nhà nhân chủng gọi là nguyên Mongoloid (Proto-Mongoloid) không được chính xác.

[3] Sách sử cổ Trung Quốc chép rằng mãi tới đời Chu, vua Chu còn sống trong hang trong khi người Việt cổ đã biết làm nhà để cư trú. Điều này chứng tỏ rằng người Việt cổ đã văn minh hơn người Trung Quốc hàng ngàn năm.

[4] Tên cũ của sông là Việt Giang sau Tầu Hán đổi tên là Tây Giang gồm 2 nhánh Tả Giang và Hữu Giang để xóa mờ dấu tích Việt cổ.

[5] Năm 1923, Học giả Madeleine Colani đã tìm thấy 2 chữ sĩ và thượng của nền văn hóa Hòa Bình có niên đại cách ngày nay 8 ngàn năm.

[6] Kim Định: Nguồn Gốc Văn hóa Việt Nam tr 110 dẫn Archeology of Ancient China của Soulie de Moraut.

[7] Theo Khoa Khảo Tiền sử thì họ chỉ đo được sọ dưới 6 ngàn năm vì quá 6 ngàn năm thì sọ bị tiêu hủy và Mực nước lên cao nhất cách đây 6 ngàn năm và rút hẳn cách đây 5.500 năm.

[8] Giáo sư nhân chủng học tại Đại học Hawai, W. G Solheim II đã công bố công trình nghiên cứu khoa học cho biết hạt lúa Orizasativa đã có ít nhất là 3.500 TDL và cư  dân Hòa Bình có thể đã thuần hóa cây lúa nước từ 15.000 năm trước. Như vậy hạt lúa này đã có trước hạt lúa tìm thấy ở Ấn Độ và Trung Quốc ít ra là mấy ngàn năm. Các nhà khảo cổ cũng tìm thấy di chỉ lúa cổ cách đây 9.000 năm ở Pengtou gần hồ  Động Đình, phiá Nam sông Dương Tử (Trường Giang) và hơn bốn mươi địa điểm có di tích lúa cổ ở gần cửa biển Nam Trường giang.  

You may also like...